BÍ
ẨN TÙ TỘI CỦA HỒ CHÍ MINH
Ở
HỒNG KÔNG (1931-1932)
Theo ký giả Dennis J. Duncanson
( trong tạp chí " The China Quarterly, tháng 1-3 năm 1974), thì từ
lâu người ta vẫn thường nghĩ rằng khi thay mặt cho Quốc
tế Cộng sản ( Comintern) để đứng ra thành lập Ðảng Cộng
sản Ðông Dương ở Hồng Kông vào giữa tháng 2 đến tháng
10 năm 1930, Hồ chí Minh vẫn ở trong sự dấu diếm, giả trang
và cuối cùng bị phát hiện và bắt giữ bởi nhà cầm quyền
thuộc địa. Những gì xảy ra cho ông khi ông ở trong tù, ông
ở tù trong bao lâu, những điều đó vẫn thường được nhắc
nhở và liên hệ đến. Nhưng không may thay, chuyện này không
bao giờ được làm một cách chính xác và đôi khi được
làm với sự tưởng tượng.
Thật ra, một phần cũng
là vì nỗ lực trọn đời của Hồ nhằm lừa dối phần còn
lại của thế giới về lý lịch bản thân, những hoạt động
và mục đích, lỗi lầm trong biến cố ở Hồng Kông, ngay
cả nhà sử học Bernard Fall sau này cũng sai lầm khi viết về
chuyện này. Có thể đơn cử một ví dụ là khi Hồ chết
vào năm 1969, báo " The Times " đăng lời cáo phó cho rằng khi
Hồ bị tù ở Hồng Kông, Hồ được ông Stafford Cripps bào
chữa cho. Lập tức Luật sư D.N.Pritt viết thư cải chính cho
rằng chính ông mới là người lo chuyện pháp lý cho Hồ, đặt
vấn đề là chính quyền Hồng Kông có được pháp giam giữ
Hồ hay không, trong khi ông Cripps thay mặt cho chính quyền Hồng
Kông, đại diện cho chính phủ Anh ở Luân đôn. Nhưng ông
Pritt cũng phạm phải sai lầm vì lý do: không những chuyện
đại diện chính phủ Anh tranh đấu cho tù nhân là chuyện
không thích hợp đối với chính phủ Hồng Kông lúc đó, mà
thời gian xảy ra ( tháng 6 năm 1932) thì ông Cripps đã rời
khỏi văn phòng được 10 tháng rồi. Như chúng ta thấy dưới
đây, chức vụ tư vấn pháp luật của ông Cripps được chấp
nhận bởi người đại diện chính phủ Anh ở Hồng Kông là
ông Messrs Burchells. Theo chuyện kể của ông thì trí nhớ ông
có phần lẫn lộn, ông lầm thời gian được nói đến là
1930-1931 trong khi thời gian được bàn cãi đến là 1931-1932;
và thật ra ngay cả một tác giả cẩn thận như H. Brimmel cũng
phạm lỗi lầm tương tự 10 năm trước đây.
Không ai ghi nhận được
hành tung của Hồ chí Minh trong những năm này. Ngay cả hồ
sơ cảnh sát, hồ sơ nhà nước công quyền, và những luật
sư ở Hồng Kông – cũng như những người ở Singapore và
sự dàn xếp quốc tế ở Thượng Hải –Nói chung tất cả
hồ sơ có dính líu gián tiếp đến câu chuyện này đều bị
phá hủy trong thời gian bị quân Nhật chiếm đóng; Những
người cố vấn pháp luật cho Hồ ở Luân Ðôn thì mất hết
hồ sơ trong những lần thu dọn sổ sách liên tục. Tuy nhiên
tóm gọn 50 năm cai trị của Anh ở Hồng Kông cũng đã để
lại những bài báo tiếng Anh có những bài tường thuật liên
quan đến vụ án của Hồ và những trường hợp có liên quan
tới Hồ trước tòa án. Có ký giả đã nói chuyện với bà
vợ của cố Luật sư F.H. Loseby, người cố vấn pháp luật
cho Hồ chí Minh và một nhân viên cảnh sát có nhiệm vụ khám
phá tông tích của Hồ. Từ những thông tin này tổng hợp
lại, ta có thể làm sáng tỏ một vài nghi vấn mù mờ cũ,
và trên hết là sửa chữa những lỗi lầm vốn đã được
nhiều người chấp nhận trước đây.
Hồ chí Minh bị cảnh
sát Hồng Kông bắt là vì hậu quả của chuyện bắt một
người bạn Pháp tên Joseph Ducroux trong Quốc tế Cộng sản
ở Singapore. Năm 1931 có sự thay đổi lớn lao đến những
luật lệ cai trị của thực dân trên khắp thế giới, trong
đó có thực dân Pháp và Anh. Hơn nữa, mùa hè năm 1931 có
nhiều chuyện thay đổi ngoạn mục đối với chính trị của
thế giới- của sự tuyệt vọng hay hy vọng tùy theo người
yêu mến sự thiết lập trật tự hay mong muốn phá vỡ nó
đi. Có biến cố về bạc ở Trung Hoa, sự thất bại của
nhà băng Genève và những chi nhánh nhỏ hơn ở Mỹ, sự khủng
hoảng ngân sách ở Anh và sự sụp đổ của chính phủ Ðảng
Lao Ðộng của ông MacDonald, và sự việc Tổng thống Mỹ Hoover
ngưng trả tiền bồi thường cho Ðức, với sự chống đối
mãnh liệt của Pháp. Năm đó Stalin dồn mọi nỗ lực, qua
tổ chức Quốc tế Cộng sản, để khai thác " sự khủng hoảng
sâu đậm của chủ nghĩa tư bản", đặc biệt là ở vùng
Viễn Ðông, đồng thời có chuyện Tổng thống Mỹ Hoover công
nhận Liên xô. Khi Ducroux xuất hiện ở vùng Ðông Nam Á châu
thì những viên chức Anh đã thăm dò ra ngay đầu mối mọi
chuyện. Họ bắt Ducroux ở Singapore là khi khai thác tin tức
của Ducroux thì dẫn đến chuyện bắt Hồ chí Minh ở Hồng
Kông.
Văn phòng hải ngoại
Anh đã biết tới Ducroux là một nhân viên của Quốc tế Cộng
sản ( Comintern) từ năm 1923, và khi chính phủ Anh biết được
chuyện trong năm 1930, ông ta sẽ đi tới phía Ðông, hướng
về phía Ấn Ðộ, họ lo lắng muốn chận ông ta lại. Ðầu
tiên ông bị phát hiện là đã ghé Colombo và bị xua đuổi
đi. Xong rồi ông đến Thượng Hải, có ghé thăm Hồng Kông
và Singapore giữa tháng 4 năm 1930 và tháng 4 năm 1931. Ducroux
dùng ít nhất một bí danh " Serge Lefranc" và thú nhận trước
tòa ông có giấy thông hành của cả hai tên, tên thật và
tên bí danh. Nhiệm vụ của ông là liên lạc với thành phần
nhân sự thay thế chi nhánh lo về Thái Lan và Ðông Nam Á Châu
của Ðảng Cộng sản Trung Quốc.
Theo lời kể lại của
Ducroux về chuyến đi không may của ông, ông đến vùng Ðông
Dương của Pháp chừng một tháng vào đầu năm 1931, sau khi
tiếp xúc và nhận chỉ thị của Hồ chí Minh ở Hồng Kông.
Ðảng Cộng sản Ðông Dương đã cho tiến hành cuộc nổi
dậy đầu tiên là Xô-viết Nghệ Tĩnh, xúi giục những sự
tàn bạo đổ máu đối với những kẻ phản bội trong giai
cấp thống trị.
Tổng bí thư Trần Phú
đã được gửi từ Mạc tư khoa ( Moscow) đến Thượng Hải,
đã nắm rõ nguyên tắc hành động của những cuộc nổi dậy
này. Mật thám Pháp theo dõi những chỉ thị gửi đến cho
ông từ Dalburo ( văn phòng Phương Ðông của Quốc tế Cộng
sản) ở Thượng Hải, cũng như từ một hay hai chỉ thị từ
Hồ chí Minh ở Hồng Kông. Cảm hứng từ nước ngoài truyền
đến cho những tổ Xô-viết ở Ðông Dương là chuyện không
còn nghi ngờ gì nữa, nhưng Ducroux không tiết lộ những gì
ông đóng góp cho họ.
Trần Phú hay Lý Quí
( bí danh là " Năm Lé " , là một thầy giáo tiểu học tại
thành phố Vinh ở Bắc Việt Nam, là một cựu Ðảng viên của
Tân Việt Cách Mạng Ðảng. Năm 1924, Phú gia nhập Việt Nam
Cách Mạng Thanh Niên Hội, (tiền thân của Ðảng Cộng sản
Việt Nam), được Lý Thụy ( Hồ chí Minh), vốn là một cán
bộ kỳ cựu của Quốc tế Cộng sản ở phần phía Nam của
văn phòng Viễn Ðông. Phú vào học ở trường võ bị Hoàng
Phố và được Hồ giới thiệu cho đi học trường Ðại Học
Thợ Thuyền Stalin Phương Ðông ở Mạc tư khoa. Vào tháng 10/1930,
Phú chủ trì một hội nghị ở Hồng Kông để đổi tên Ðảng.
Vào mùa xuân năm 1931,Pháp bắt những cấp lãnh đạo Ðảng,
Trần Phú bị đưa vào tù và chết vì bệnh lao phổi ở đó
năm 1931.
Ðại Học Thợ Thuyền
Phương Ðông hay trường Stalin được Lênin thành lập vào
ngày 21 tháng 4 năm 1921 với mục đích huấn luyện cán bộ
cho miền Ðông Á trở thành những cán bộ Cộng sản vô sản
chuyên chính. Mỗi học viên được học kỹ về lịch sử
Ðảng Cộng sản của Liên xô và một căn bản vững chắc
về sự diễn dịch của Stalin về chủ thuyết Mác-Lênin. Ngoài
ra, học viên còn được huấn luyện về cuộc sống tập thể,
lao động sản xuất, động viên và tổ chức quần chúng,
tuyên truyền..
Vào đầu năm 1924, viện
này có 1222 học viên của 65 quốc gia với một ban giảng huấn
gồm 150 người. Ngân sách của trường là 50000 rúp-pê mỗi
năm.
Năm 1931, chính phủ Pháp
cho biết có 30 học viên Việt tốt nghiệp từ trường đó.
Trong số đó có những nhân vật tên tuổi như : Bùi công Trừng,
Nguyễn khánh Toàn, Hà huy Tập, Dương bạch Mai, Lê hồng Phong,
Trần Phú, Trần ngọc Danh ( Ranh), Trần văn Giàu ..v..v
Ducroux còn có thêm nhiều
công tác khác nữa, và ngày 27 tháng 4 năm 1931 đã đến Singapore
trên chiếc tàu " Tổng thống Adams " mà cảng đến cuối cùng
là Hồng Kông. Theo lời viên cảnh sát Onraet, người đã gài
bẫy và làm chứng về Ducroux thì nhiệm vụ của Ducroux là
siết chặt thêm hàng ngũ của Ðảng Cộng sản Mã lai, cụ
thể là coi xem 50000 dollars của " vàng Moscow" đã dùng vào chuyện
gì . ( Số " vàng Moscow " này do những người cách mạng Bôn-sê-vích
lấy được năm 1917 và xuất cảng sang Tây Âu trong những
bao ngoại giao từ 1918 trở về sau, dưới sự chỉ đạo của
Zinoviev và được Ðại sứ Ðức ở Liên xô là Adolf Joffe
thi hành. Cả Joffe và Trosky đều huênh hoang về số " vàng
Moscow" này.). Ducroux giả trang làm một khách du lịch thương
mại dưới cái tên " Serge Lefranc". Nhưng ông nhanh chóng bắt
liên lạc với một người di dân tên Fu Ta-ching vốn là một
người thân cận của Hồ chí Minh trong việc thành lập Ðảng
Cộng sản Thái Lan năm 1929, và ông là người nói thông thạo
tiếng Anh. Ông này hiện đang bị mật thám Anh theo dõi vì
đã liên lạc với một Ðảng viên Cộng sản Nam Dương tên
Tan Malaka trong thời kỳ nổi dậy năm 1925-1927 dưới sự chỉ
đạo của Quốc tế Cộng sản. Onraet, Dickinson, Prithvi Chand
lập một chiến dịch truy tầm và bắt được Ducroux vì Ducroux
sơ ý bỏ rơi những tờ giấy bỏ đi có ghi tin tức. Cùng
bị bắt với Ducroux có Fu Ta-ching và 15 thành viên của Ðảng
Cộng sản Mã Lai. Tất cả đều bị truy tố với tội không
đăng ký lưu trú nên bị coi là bất hợp pháp. Một số người
bị tố cáo nhận tội, sáu người không nhận tội cũng được
tha,và có một người bỏ trốn; nhưng Fu bị tù 6 tháng, Ducroux
bị 18 tháng và số 4 người còn lại bị mỗi người hai tháng
tù. Yêu cầu của phe công tố đòi tịch thu tạm thời số
12000 dollars tiền vàng của Ducroux bị bác bỏ. Số tiền này
được trao lại cho lãnh sự Pháp để sau này đưa lại cho
Ducroux sau khi ra tù.
Ðiều rõ ràng cụ thể
nhất tìm thấy được là giấy tờ trong người Ducroux có
ghi những địa chỉ ở Hồng Kông và Thượng Hải. Những
hoạt động của Quốc tế Cộng sản trong những năm trước
đã làm cho lực lượng cảnh sát của thuộc địa thực dân
ở Ðông Nam Á châu liên lạc với Ủy ban hành chánh ở Thượng
Hải để điều tra, và Onraet đã đánh điện những địa
chỉ này về cho những giới chức thẩm quyền liên hệ. Vào
ngày 15 tháng 6, người cầm đầu của tổ chức Dalburo là
Paul Ruegg với bà vợ của ông bị bắt, tang vật có đống
" tiền vàng Moscow" – trong đó có nhiều nén vàng. Năm ngày
sau, bí thư của CCP là Hsiang Chung-fa bị Pháp bắt. Cho tới
mới đây, chỉ huy của Dalburo là Gerhard Eisler, Ruegg là phụ
tá cho ông, nhưng Eisler được Quốc tế Cộng sản cho làm
đại diện Ðảng Cộng sản Mỹ. Chỉ có Pavel Mif là thoát
lưới bắt bớ. Ruegg không bị kết án tội gì. Một bản
cáo trạng của tòa án Thượng Hải cho biết có 1300 văn kiện
từ những địa chỉ khác nhau được ông sử dụng, có liên
quan ít nhiều đến vùng Ðông Nam Á châu, nhưng phần lớn
với Trung Hoa. Sự chi tiêu của Dalburo đã tới con số 400000
dollars chỉ trong vòng vài tháng. Họ bị gửi đến thành phố
Nam Kinh để ra tòa và bị tù chung thân. Năm 1934 , Luật sư
Munzenberg kháng án và họ tuyệt thực để hỗ trợ và cuối
cùng được tha. Họ về lại Mạc tư khoa và lại bị rắc
rối một lần nữa vì đã ủng hộ Trotsky.
CHUYỆN HỒ CHÍ MINH BỊ
BẮT
Trong lúc đó, Hồ chí
Minh bị khám phá ra vào ngày 6 tháng 6 năm 1931 tại một địa
chỉ gần khu Cửu Long ( Kowloon ) với một người đàn bà trẻ;
cả hai đều dùng tên Quảng Ðông là Sung Man-ch’o và Li Sam.
Theo nhà sử học Pháp
Daniel Hemery ( là người đã khám phá ra lá thư bằng chữ Hán
mà Hồ chí Minh gửi cho người vợ Tàu Tăng tuyết Minh), trong
trang 143 của cuốn sách " Ho chi Minh : de l’Indochine au Vietnam
" do nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 1990 cho biết là vào
ngày 1 tháng 6 năm 1931, Cảnh sát Anh tại Singapore bắt được
một nhân viên người Pháp của Quốc tế Cộng sản ( Comintern)
tên Joseph Ducroux ( bí danh Serge Lefranc). Từ chuyện bắt bớ
này, họ truy ra một nhân viên Quốc tế Cộng sản khác.Vào
2 giờ sáng ngày 6 tháng 6 năm 1931, Cảnh sát Hồng Kông tới
số nhà 186 đường Tam Kaw, Cửu Long ( Kowloon) để bắt một
người đàn ông tên Sung Man Ch’o sống với một người đàn
bà trẻ lên Ly Ung Thuan, đó là người đàn bà mà người đàn
ông cho là cháu của ông ta. Cuối cùng thì cuộc diều tra cho
biết Ly Ung Thuan không phải là người Tàu mà là người Việt
tên Le thi Tam, vợ của Hồ tùng Mậu, là người dưới tay
của Hồ . Mậu bị bắt trước đây và được thả sau đó
vào ngày 30 tháng 6 năm 1931.
Hồ tùng Mậu ( 1896-1951):
Sau này là người làm việc cho Hoàng văn Hoan, có quê quán
ở làng Quỳnh Ðôi, Nghệ An. Ông nội là một quan lại, cha
tham gia vào phong trào Văn Thân và chết ở trại tù Lao Bảo.
Ông Mậu đến Trung Hoa vào năm 1919 và là người hoạt động
dưới tay của cụ Phan bội Châu. Năm 1924, Cụ Phan bội Châu
tin tưởng giao cho mậu chuyện phát tán những văn kiện về
Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Khi cụ Phan về lại vùng Hanzhou
thì Mậu bỏ cụ để đi theo Nguyễn ái Quốc ( Hồ chí Minh)
và Cộng sản Quốc tế. Từ năm 1925, Hồ tùng Mậu được
coi như là thủ lãnh của " Việt Nam Thanh niên Cách Mạng đồng
chí hội " . Mậu chết vào tháng 7 năm 1951.
Ðiều cần thiết cần
phải lưu ý ở đây là vào năm 1930, Hồ có huấn luyện thêm
cho một cô gái tại phân bộ phía Nam của văn phòng Viễn
Ðông của Quốc tế Cộng sản. Cô gái này là Nguyễn thị
Minh Khai. Có người cho rằng Sung Man Ch’o là Tống văn Sơ
tức Hồ chí Minh và Nguyễn thị Minh Khai còn có một tên khác
là Lý huệ Sương.
Nguyễn thị Minh Khai
( 1910-1941) : Minh Khai là nữ cán bộ đầu tiên được huấn
luyện tại trường Stalin nổi tiếng. Minh Khai quê quán ở
Vinh, cha là Nguyen huy Binh là thư ký xe lửa, mẹ là Do thi Tho
thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Có cô em gái là Nguyễn thị Minh Thái
( là vợ đầu của Võ nguyên Giáp). Minh Thái cũng gia nhập
vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương để hoạt động chống Pháp
và sau đó bị chết trong tù.
Năm 1927, Minh Khai gia
nhập Tân Việt cách mạng đảng và là thành viên trong ban
chấp hành tỉnh ủy Nghệ An. Năm 1929, cô rời xa gia đình
đi hoạt động ở Bến Thủy, Nghệ An. Sau đó cô gia nhập
Ðảng Cộng sản Ðông Dương và năm 1930 Minh Khai đến Hồng
Kông và làm việc cho phân bộ phía Nam của văn phòng Viễn
Ðông thuộc Quốc tế Cộng sản ( thường gọi là Dalburo),
côø sống gần gũi thân mật với Lý Thụy ( Hồ chí Minh)
và có nhiều bí danh như " cô Duy" , Trần thái Lan, Lý huệ
Sương. Quan hệ giữa cô và Hồ chí Minh đã vượt ra khỏi
tình đồng chí. Minh Khai có lẽ là người vợ Tàu mà Hồ
chí Minh giới thiệu với một nhà báo Anh vào đầu thập niên
1930 và có lẽ là người mà Hồ tâm sự với sự thương cảm
cùng Ðại úy cơ quan tình báo OSS Mỹ Allison Thomas vào tháng
7 năm 1947 rằng Minh Khai bị Pháp xử tử .
Theo tài liệu của Cộng
sản Việt Nam, năm 1931 Minh Khai bị Quốc Dân Ðảng bắt và
thả ra năm 1933. Cuối năm 1934, cùng với Lê hồng Phong và
Hoàng văn Nọn, Minh Khai rời Trung Hoa đi Mạc tư khoa để tham
dự Hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế thứ ba tổ chức
vào tháng 7 năm 1935. Khai lấy Lê hồng Phong làm chồng ở Mạc
tư khoa. Rồi cô vào học trường Stalin.Vào tháng 3 năm 1936
cô trở lại Việt Nam cùng với Hoàng văn Nọn và hoạt động
trong khu vực Sài gòn- Gia Ðịnh. Năm 1939, cô sinh một đứa
con đặt tên là Lê hồng Minh ( tức con của Lê hồng Phong).
Vào ngày 30/7/1940, Minh
Khai bị bắt. Dù cô không dính líu đến cuộc nổi dậy ngày
22/11/1940 ở miền Nam, Minh Khai bị tuyên án tử hình. Giám
đốc bộ thuộc địa Gaston Joseph xin bản án ân xá cho cô
nhưng Toàn quyền Decoux cương quyết thi hành bản án. Minh Khai
bị xử bắn tại Hóc Môn, ngoại ô Sài gòn vào ngày 28/8/1941.
Hồ bị bắt giam không
có bản án vì có giữ những tài liệu dính líu đến Quốc
tế Cộng sản, hồ sơ có ghi chữ " tài liệu cần chuyển
ngữ " , nhưng khi ra tòa lại không thấy trưng bày những tài
liệu này. Cùng với Ruegg, rõ ràng là Hồ không phạm tội
gì, giống như trường hợp Ducroux ở Singapore nhưng Ducroux
bị bắt. Tội của Hồ và Ducroux nếu nói một cách cụ thể
là coi như có âm mưu lật đổ từ xa. Tuy nhiên chính sách
của Hồng Kông là không tha thứ cho chuyện dùng lãnh thổ
nó để xúi giục gây rối loạn cho những quốc gia láng giềng:
Hồng Kông có thể cho những người tỵ nạn chính trị được
hưởng quy chế tỵ nạn, dễ dãi tha thứ cho âm mưu lạm dụng
những cơ xưởng tự do, rộng mở của thuộc địa này. Những
giới chức hài lòng chuyện tìm ra " Sung" chính là " Nguyễn
" và quyết định sau 6 ngày bắt giam Hồ là đưa ra án lệnh
trục xuất ông ta.
Vì Nguyễn ái Quốc (
Hồ chí Minh) là người được Pháp che chở và là dân của
Ðông Dương nên thủ tục tống xuất thông thường là tống
ông ta lên một chiếc tàu chuẩn bị đi đến một cảng nào
đó ở Ðông Dương.
Ở giai đoạn này, phiên
tòa của Ducroux ở Singapore đã xong nên hai cảnh sát viên Onraet
và Dickinson hài lòng và tự tin đi đến Hồng Kông. Tại đây
họ gặp một viên chức Anh từ Thượng Hải đến,và 2 nhân
viên mật vụ Pháp đến từ Sài gòn, họ họp với nhau theo
kiểu phối hợp của cảnh sát quốc tế Interpol bây giờ.
Mật thám Pháp may mắn ruồng bố và bắt giữ một số cán
bộ của Ðông Dương Cộng sản đảng trong đó có Trần Phú.
Họ có những quan điểm đối chọi nhau về sự quyết tâm
của bộ máy Quốc tế Cộng sản và đặc biệt về vai trò
của Hồ chí Minh. Mật thám Pháp đã nhìn thấy sự hung ác
ghê tởm của nhóm " xô viết" ở Việt Nam nên muốn dẫn độ
Hồ chí Minh về Việt Nam, trong khi phe cảnh sát ở Singapore
có khuynh hướng không tin âm mưu của Cộng sản Quốc tế
là chuyện đáng báo động đối với lực lượng cảnh sát.
Nhà cầm quyền Hồng Kông giữ thái độ dễ dãi và rộng
mở. Vào khoảng ngày 10 tháng 7 năm 1931 thì có lệnh trục
xuất . Cảnh sát viên Dickinson có ra tòa làm chứng một lần
và khi Hồ nghe tin có người Pháp đến Hồng Kông, ông khiếu
nại là đã bị mật thám Pháp thẩm vấn trong khi đang bị
người Anh giam giữ. Chính quyền Hồng Kông gửi những nhóm
cảnh sát tới Hồng Kông để điều tra trước đây về nguyên
quán . Sự khiếu nại của Hồ là một đòn đánh thành công
vào sự hợp tác của cảnh sát truy lùng phe Quốc tế Cộng
sản ở vùng Viễn Ðông trong 7, 8 năm nay.
Trong khi bị điều tra
Hồ chí Minh tỏ ra hòa nhã và dễ mến. Hồ nói tiếng Anh,
chứ không nói tiếng Quảng Ðông. Hồ học tiếng Tàu tương
đối chậm và vào năm 1925 khi nói chuyện với một hội nghị
Quốc Dân Ðảng thì ông dùng tiếng Pháp. Những người thẩm
vấn không ngạc nhiên khi thấy Hồ còn yếu tiếng Quảng Ðông
vì họ biết Hồ là người Việt Nam. Dù trước đây ông khai
là ông sinh năm 1890 nhưng giờ đây ông nói ông chỉ có 36
tuổi. Ông chối ông không phải là Nguyễn ái Quốc và nói
ông sinh ở một tỉnh của Trung Hoa đối diện với tỉnh Móng
Cáy của Việt Nam. Ông nói ông có đi Pháp nhưng không đi Liên
xô và không dính dáng gì đến Quốc tế Cộng sản. Ông tự
nhận ông không phải là người Cộng sản mà là người quốc
gia. Ông nói không có cái gì gọi là Ðảng Cộng sản Việt
Nam – mà chỉ có 3 đảng " quốc gia", có sự khác nhau giữa
mỗi đảng tùy theo quyền lực bên ngoài mà đảng đó hướng
tới để tìm kiếm sự giúp đỡ hầu chống lại chủ nghĩa
đế quốc. Một đảng thân Nhật, một thân Ðức và một
thân Anh. Ông là người thuộc đảng thân Anh. Ông từ chối
không biết đến ông Lefranc nhưng thú nhận có viết một tấm
danh thiếp đề tên Lefranc mà cảnh sát viên Onraet kiếm thấy
trong túi của Ducroux. Một cái thư của Lefranc gửi cho " T.V.Wong"
là chủ nhà của ông bị Onraet chặn giữ, ông nói thư ấy
không có ý gửi cho ông. Ông thú nhận bức ảnh " Nguyễn ái
Quốc " chính là ông ( đây là bằng chứng cho ông biết mật
thám Pháp đang có mặt ở Hồng Kông), nhưng nói ông không
đội cái nón như trong hình. Sự đối đáp lung tung của Hồ
cũng tương tự như sự chối từ lý lịch của Tan Malaka để
tránh né sự trục xuất làm cho cảnh sát nghi ngờ là đã
có sự chỉ thị chung của Quốc tế Cộng sản cho cán bộ
của họ. Sự chối bỏ này đã giúp cho can phạm ít nhiều
khi ra tòa. Ông yêu cầu ông được trục xuất về Anh.
Vào lúc này ông Luật
sư Frank Loseby,vốn là một cố vấn trẻ ở Hồng Kông, đang
cố gắng để đứng ra biện hộ cho Hồ. Và rốt cuộc Hồ
được thả ra. Sau này vào thập niên 60, ông Loseby có qua Hà
Nội thăm Hồ trước khi Hồ qua đời.
Ngày xưa khi đi làm cách
mạng, lúc bị bắt và bị tù, Hồ chí Minh còn được các
luật sư tận tình đứng ra bào chữa một cách đàng hoàng
dù đó là thời của thực dân thống trị. Ngày nay, mỉa mai
thay, trong chế độ Hồ chí Minh, những người bị án tù chính
trị lại không có được một luật sự bào chữa chính thức
như Hồ chí Minh đã có trong thời gian bị bắt ở Hồng Kông.
Xem thế mới thấy con đường cách mạng mà Hồ chí Minh đã
đi không mang lại dân chủ cho dân tộc Việt Nam mà chỉ đưa
dân tộc vào trong một chế độ phản dân chủ, tối tăm mà
con đường thoát ra duy nhất là phải tìm đủ mọi cách để
giật sập chế độ rừng rú, độc tài này xuống. Dân Việt
Nam đang từng ngày đổ máu để làm công việc vô cùng khó
nhọc nhưng đầy vinh quang đó.
Một ngày không như mọi
ngày. Mỗi ngày qua đi đều có sự thay đổi như tế bào trên
con người. Những tế bào già nua, thối rữa phải rụng xuống
để cho tế bào mới đâm chồi nảy lộc thay thế. Guồng
máy chuyên chính nặng nề cũng có ngày phải sụp đổ vì
không còn khả năng đứng vững để tồn tại với thời gian.
Mau hay chậm là tùy sức
lực và quyết tâm hành động của chúng ta,những người còn
nghĩ đến quê hương và dân tộc. Lịch sử đã cho thấy có
triều đại nào đứng mãi với thời gian, triều đại Cộng
sản cũng đang bước vào giai đoạn hấp hối, lâm chung. Chúng
ta cần phải tỉnh táo để xử lý mọi chuyện đúng lúc,
đúng nơi, hợp tình hợp lý để tiết kiệm xương máu cho
nhân dân Việt Nam trong khi đương đầu với bạo quyền độc
ác, tàn bạo. Một nhân dân đã chịu quá nhiều đau khổ và
bất hạnh.
Ôi ! ai cũng mơ tới
một ngày triệu triệu trái tim bùng vỡ ngất trời để đưa
bọn mặt người dạ thú trong chế độ độc tài, phản dân
chủ ở Việt Nam ra pháp trường xử tội.
Lawndale, Một chiều thu
lạnh cuối tháng 10 năm 2004
Trần viết Ðại Hưng
Email: [email protected]
|