DỬNG
DƯNG
TRƯỚC
NỖI ÐAU ÐỒNG LOẠI
(Updated July 24/2002, Aug.16/2002; Mar. 01/03;
Apr. 14/03; Nov. 10/03)
Từ lúc có mặt
con người trên mặt đất,
con người lúc đầu sống
thành từ bầy, từng đàn
và sau này thành từng bộ lạc.
Nói chung từ thuở ûkhai thiên
lập địa đến nay, con người
vốn sống chung với nhau trong tình
tương thân tương ái. Cho dù
nhân loại sau này có bước
qua thời kỳ phong kiến và sau này
là tư bản, con người nói
chung là có cuộc sống riêng tư
nhiều hơn, tuy thế vẫn có sự
ràng buộc mật thiết với những
người chung quanh. Mọi người
đều sống độc lập với
khả năng của mình nhưng vẫn cần
sự giúp đỡ của tha nhân
khi gặp chuyện không may. Thế nhưng vẫn
có trường hợp trong đó
có những người dửng
dưng và quay lưng lại với nỗi
đau đồng loại của mình. Nguyên
nhân thờ ơ dửng dưng trước
sự nguy khó của người khác
có thể là do cá tính ích kỷ
của người bàng quan, hoặc chịu
ảnh hưởng của văn hóa và
xã hội đương thời đang
sống hay là bị chi phối nặng nề
của nề nếp chế độ đương
thời. Nhân chi sơ bao giờ cũng
tính bản thiện, chỉ vì ảnh hưởng
của văn hóa độc hại cùng
cách cai trị vô luân và vô
nhân của chế độ độc ác
đã làm cho con người mất
dần đi bản tính thiện căn bản
của mình là sẵn sàng ra tay cứu
giúp người khác trong khi hoạn
nạn cấp kỳ. Ðôi khi con người
nhúng tay vào tội ác chỉ vì
phải theo lệnh nhà cầm quyền độc
tài chuyên chế mà họ không
có khả năng từ khước
vì đó là nhiệm vụ phải
làm. Chuyện ác thường được
che đậy dưới nhiều mỹ từ
như tranh đấu cho độc lập, tự
do, công bằng dân chủ làm cho người
phạm tội ác đôi khi không đủ
lý trí để nhận xét đúng
sai hành động của mình. Chuyện
ác có khi được thi hành
như bổn phận bắt buộc của một
người lính, người dân
mà khi thi hành xong rồi, những người
còn có chút lương tâm, sẽ
ray rứt ân hận khôn nguôi.
Sự tác hại đến
người khác không phải lúc
nào cũng đến từ một hành
động gây đau đớn. Nó
có thể đến từ sự
"án binh bất động " khi có người
cần sự giúp đỡ. Ðể
minh chứng cho điểm này, người
ta có thể nhắc lại một câu chuyện
xảy ra ở Queen, New York vào năm 1964.
Một người đàn bà tên
Kitty Genovese bị một người đàn
ông đâm trong suốt hơn nửa
tiếng đồng hồ với 3 lần
tấn công riêng biệt, trong khi 38 người
chung quanh đứng ngó và không
làm gì cả. Không có người
nào đứng coi gọi điện thoại
cho cảnh sát đến can thiệp. Chỉ
có một người duy nhất gọi
cảnh sát sau khi nạn nhân đã
chết. Báo chí và truyền hình
tìm cách lý giải sự dửng
dưng vô tình của " những người
đứng coi " và làm cho cả nước
Mỹ sửng sốt và bối rối
vì không thể chấp nhận nổi sự
dửng dưng vô tình của những
người công dân có trách
nhiệm. Sự phẫn nộ đối với
án mạng của bà Kitty Genovese đã
tạo nên sự chú ý chưa từng
có đối với vấn đề
lãnh đạm, hờ hững của
những người bàng quan.
Tại sao những người
bàng quan không nhảy vào giúp đỡ
nạn nhân? Phải giải thích vấn
để tâm lý xã hội trong chuyện
này như thế nào?
Sau khi nghe vụ án giết
người của bà Kitty Genovese và
những phân tích của báo chí,
nhà tâm lý xã hội Bibb Latané
và John Darley bắt đầu nghiên cứu
đến vấn đề can thiệp của
những người bàng quan. Những
cuộc nghiên cứu tạo ra những
vấn đề tương tự đối
diện với những người
bàng quan trong tình trạng khẩn cấp
thật sự. Trong một trường hợp,
có một sinh viên được đặt
vào trong một phòng một mình và
liên lạc bên ngoài bằng một hệ
thống điện thoại, anh ta được
hướng dẫn để tin rằng
anh đang liên lạc với một hay nhiều
sinh viên khác ở trong những phòng
kế cận. Trong khi thảo luận về những
vấn đề cá nhân, chủ đề
nghe được giống như nói đến
một trong những sinh viên khác ở
phòng bên đang bị chứng co giật
và đang thở hổn hển kêu
cứu sự giúp đỡ. Trong
khi người kia bị " co giật " như thế,
chuyện tìm cách nói chuyện với
những người kia là chuyện
không thể được hay rất khó
tìm hiểu xem họ đã làm gì
về chuyện khẩn cấp này . Vấn
đề tìm hiểu ở đây
là xem người sinh viên đó
phản ứng với tốc độ
như thế nào để báo cáo
với người đang làm thí
nghiệm với anh ta về chuyện người
bị co giật mà anh nghe thấy. Kết quả
thí nghiệm cho thấy là anh ta phản
ứng nhanh hay chậm tùy thuộc vào
số người mà anh tin là đang
ở trong nhóm thảo luận với
anh ở những phòng kế cận.
Anh càng tin có càng nhiều người
thì anh càng phản ứng chậm trong
chuyện báo cáo về chuyện người
bị co giật. Thí nghiệm cho biết nếu
chỉ có hai người thì phản
ứng chỉ trong vòng 160 giây, nhưng
gần 40% những người nếu
tin rằng họ là một phần trong một
nhóm lớn hơn thì họ không
bao giờ bận tâm đi báo cáo
chuyện có một người bị đau
nặng.
Ðó là tại người
hay tại hoàn cảnh? Những cuộc thử
nghiệm về cá tính cho thấy không
có sự liên hệ rõ rệt nào
giữa những cá tính đặc
thù cá nhân và tốc độ
phản ứng hay khả năng can thiệp.
Mấu chốt trong chuyện can thiệp nhanh hay chậm
là tùy thuộc vào số lượng
người hiện diện. Hai ông Darley và
Latanté chiêm nghiệm rằng là khả
năng can thiệp sẽ hạ xuống nếu
số lượng người chung quanh
tăng lên, bởi vì mỗi người
cứ nghĩ là những số người
khác sẽ giúp, cho nên bản thân
người ấy không muốn quyết
tâm đứng ra " đứng mũi
chịu sào " . Những cá nhân khi
coi họ là một phần của một nhóm
đông người có khả năng
can thiệp trải qua cái kinh nghiệm trách
nhiệm phân tán: sự phân tán
hay làm yếu đi trách nhiệm bổn
phận của mỗi cá nhân trong nhóm
là phải giúp, như sự tổng
cộng trách nhiệm được chia
sẻ bởi tất cả những thành
viên trong nhóm. Bạn có thể kinh nghiệm
trong một lúc nào đó cái trách
nhiệm phân tán này nếu bạn lái
xe vượt qua và làm lơ không
đứng lại để cứu giúp
một chiếc xe bị hư đang nằm trên
xa lộ vì bạn cho rằng ‘ sẽ có
ai đó ‘ sẽ dừng lại để
giúp. Ngược lại, nếu bạn tin
rằng bạn là người bàng
quan duy nhất biết đến cảnh ngộ
khốn cùng, tuyệt vọng của nạn
nhân, bạn sẽ cảm thấy có trách
nhiệm nhiều hơn – và cơ hội – để
cung ứng sự giúp đỡ.
Một yếu tố không
còn nghi ngờ gì nữa cũng
có tác dụng : đó là sự
thích nghi. Khi không biết phải hành
động như thế nào thì người
ta thường hay làm theo người
khác. Ðiều đó cũng xảy
ra trong khi nghiên cứu đến vấn
đề những người bàng
quan, nơi những người trong cuộc
thất bại trong chuyện can thiệp đã
được quan sát và hướng
theo cung cách của những người
không làm gì. Cho nên vấn đề
người bàng quan can thiệp nhanh hay chậm
phần nào là vấn đề làm
theo những tiêu chuẩn và quy tắc
của nhóm mà người bàng
quan là thành viên trong nhóm đó.
Thật ra chuyện ngần ngại
can thiệp người đang bị nguy khốn
trong xã hội Mỹ cũng bắt nguồn
từ một nguyên nhân khác là
luật lệ nhiêu khê của luật pháp
Mỹ. Cứu người không khéo
sẽ mang thêm những rắc rối
pháp luật vào mình. Luật pháp
không phải cũng hoàn toàn công
bình công lý hoàn toàn mà
đôi khi cũng có sai sót, nhiều
chuyện " tình ngay lý gian ", không khéo
người can thiệp vào những
chuyện làm có tính cách hiệp
sĩ lại mắc vòng lao lý tù
tội oan uổng. Cho dù là ở trên
xứ Mỹ văn minh này cũng thế
thôi. Trên tờ báo Newweek cách
đây vài năm có đăng
một bài trong mục " My turn" ( Ðến phiên
tôi) của một bác sĩ kể chuyện
có hôm ông đi đường
gặp một cảnh tai nạn. Ông Bác sĩ
này tên là James N. Dillard và số
báo Newsweek này là số ngày 12
tháng 6 năm 1995. Vì là một bác
sĩ nên ông tức tốc đến
cấp cứu nạn nhân trong khi chờ
xe cứu thương đến. Lúc ông
đến nhà thương làm việc
thì người xếp của ông cho
biết là lần sau không nên nhảy
vào để cứu cấp như vậy
vì nếu có điều gì không
hay xảy ra cho nạn nhân thì sẽ mang
rắc rối pháp lý vào người.
Lời khuyên đó có vẻ
ích kỷ nhưng phản ánh cách suy
nghĩ của người công dân
trong xã hội Mỹ. Hệ thống pháp
luật Mỹ nói chung chỉ có lý
mà không có tình, đã ngăn
trở những người công
dân tốt trong chuyện nhảy vào cứu
cấp người đang lâm nạn.
Những luật sư chuyên
nghề kiện tụng ở Mỹ đã
làm cho lối sống của người
Mỹ ngày thêm ích kỷ, dửng
dưng và thờ ơ trước
người đồng bào minh đang
lâm nạn. Ngày xưa có những
luật sư như Abraham Lincoln của Mỹ (sau
này thành một trong những tổng
thống vĩ đại nhất của Mỹ),
luật sư Gandhi của Ấn độ dùng
sở học của mình để bênh
vực cho những người yếu
thân, cô thế đang chịu đựng
sự bất công. ( Sau này chính là
thánh Ganhdi, người đã lãnh
đạo dân tộc Ấn giành độc
lập từ tay người Anh.)
Ngày nay luật sư hầu
như chỉ đi tìm kiếm những
sự không may,lầm lỗi sơ hở
của người dân để làm
giàu cho túi tiền của mình. Ông
Iacocca, nguyên Tổång giám đốc
hãng xe Chrysler đã có một nhận
xét cay đắng trong cuốn hồi ký
của ông như sau về tình trạng lạm
phát luật sư trên đất Mỹ,
" Nước Nhật ngày càng khá
vì cứ 9 kỹ sư mới có
một luật sư. Còn nước Mỹ
thì ngày càng lụn bại vì cứ
9 luật sư mới có một kỹ
sư . " Ý ông Iacocca muốn mỉa mai chuyện
luật sư Mỹ suốt ngày đem bị
can, bị cáo lên tòa kiện tụng
những chuyện bá vơ làm suy yếu
tiềm lực quốc gia. Dĩ nhiên chuyện
kiện tụng cũng làm cho người
không dám cứu người trong
những tình trạng nguy nan, khẩn cấp
vì sợ liên lụy đến nạn
nhân nếu sự cứu giúp không
mang lại kết quả tốt đẹp mà
ngược lại gây ra những chuyện
bất như ý cho nạn nhân. Người
đi làm ơn rất có nhiều nguy
cơ bị mắc oán và đó
là nguyên nhân khiến cho người
bàng quan ngần ngại trong chuyện cứu
cấp người đang mắc nạn
trong xã hội Mỹ.
Riêng tại Việt nam bây
giờ chuyện cứu giúp người
lâm nạn có gì khác biệt không?
Trong một cuộc phỏng vấn với Ðài
phát thanh Á châu tự do vào trung
tuần tháng 4 năm 2002, Thầy Tuệ Sĩ
báo động cái tình trạng dửng
dưng của con người trong chế độ
Cộng sản hiện nay trước nỗi
đau đồng loại. Thầy kể chuyện
có một phụ nữ bị cướp
công khai giữa thanh thiên bạch nhật
ở ngoài đường. Phụ
nữ này hô hoán kêu cứu
nhưng đám đông chung quanh chỉ
trơ mắt ngó và không ai can thiệp.
Thầy cho biết cái tinh thần truyền
thống lâu đời " bầu ơi
thương lấy bí cùng " của người
Việt Nam ngày nay hầu như không còn
nữa. Thầy chỉ rõ nguyên nhân
là do sự tàn phá của chủ
nghĩa Cộng sản, đã dần dần
phá hoại những truyền thống
đạo lý cao đẹp của dân
tộc. Thầy tố cáo chủ nghĩa
Cộng sản hiện tại là chủ nghĩa
phá hoại ( vandalism), đã phá hoại
đến tận cùng ngàn năm văn
hóa,văn hiến của đất nước
Việt Nam và triệt tiêu văn minh loài
người. Một thứ phá hoại
hạ cấp bỉ ổi. Hy vọng tấn thảm
kịch Cộng sản sẽ sớm hạ
màn trên quê hương Việt Nam để
người Việt Nam sẽ lại yêu
thương, đùm bọc, cứu giúp
lẫn nhau như câu ca dao được
truyền tụng lâu đời, " Nhiễu
điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước phải
thương nhau cùng." Cái tinh thần " thấy
người hoạn nạn thì thương
" được coi như truyền thống
xử sự nhân đạo và cao
đẹp của người Việt Nam ngày
càng mai một dưới chế độ
Cộng sản. Tình người đối
với nhau không còn nồng thắm
như xưa mà trái lại lạnh nhạt
xa cách với nhau đến độ
tàn nhẫn. Sự đối xử
tử tế dành cho nhau giờ sao quá
hiếm hoi. Và đó là điều
đáng lo ngại khi sự dửng dưng
trước nỗi khổ của nhau đã
trở thành một nếp sống. Một
nếp sống thờ ơ, hời hợt
của con người mới xã hội
chủ nghĩa hôm nay mà phải cần
nhiều thế hệ nữa mới mong
thay đổi lối sống ích kỷ hại
nhân xấu xa này vốn đã biến
thành tì vết trong tâm thức.
Nhắc đến thầy
Tuệ sĩ người ta không thể
quên tinh thần bất khuất đấu
tranh của thầy khi bị tù tội Cộng
sản. Cách đây không lâu trước
khi được trả tự do cùng
chung với thầy Trí Siêu, Cộng
sản bắt thầy phải ký tên xin
ân xá tới chủ tịch nước
Trần đức Lương. Thầy phản
đối không ký và tuyệt thực
luôn trên 10 ngày để phản đối.
Rốt cuộc Cộng sản chịu thua và
trả tự do cho thầy về nhà. Thầy
giỏi chữ Hán, có thể làm
thơ bằng chữ Hán như thi sĩ
Cao Tiêu ở hải ngoại. Nhà văn
Nguyễn minh Cần đã ca tụng thầy
là một tài năng của đất
nước, một niềm tự hào
của trí tuệ Việt Nam, và là một
nhà Phật học uyên bác trong cuốn
sách " Công lý đòi hỏi " của
ông. Học giả Ðào duy Anh sau khi gặp
thầy tại Nha Trang năm 1976 đã nhận
xét " Thầy là viên ngọc quý
của Phật giáo và của Việt Nam."
Bài thơ " Tự Thuật"
làm cho chúng ta hiểu rõ thầy thêm
nữa. Những giáo lý về
sự Khổ và tính Không của
nhà Phật thầy đã học ba mươi
năm trước giờ đây
giúp thầy lấy cái Chân Không
mà đối trị lại cái đêm
đỏ của địa ngục trần gian
do các thế lực yêu ma, ác quỷ
tạo nên. Thầy dùng cái trí
tuệ Bát Nhã của nhà tu để
đối diện với đêm tối
máu lửa, hận thù
TỰ THUẬT
Tam thập niên tiền học
Khổ Không
Kinh hàm đôi lũy
ám tây song
Xuân hoa bất cố xuân
quang lão
Thúy trúc tà phi
túy mộng hồn
Nhẫm nhiễm trường
mi thùy hoại án
Ta đà tố phát
bán tàn phong
Nhất triêu cước
lạc huyền nhai hạ
Thủy bá Chân Không
đối tịch hồng
Tạm dịch:
TỰ THUẬT
Ba mươi năm rồi
học Khổ không
Kinh sách chất đầy
cả cửa song
Xuân thắm không nhìn
xuân hóa lão
Trúc xanh thoáng lượn
đã say hồn
Thời gian thấm thoát
mi dài rũ
Tháng lại ngày qua
tóc điểm sương
Một sớm sẩy chân
rơi vực thẳm
Chân Không bèn lấy
chọi đêm hồng
Cách đây không lâu
trong khi trả lời một đài phát
thanh Việt ngữ ở nước
ngoài nhân đám tang của Hòa
thượng Ðức Nhuận, thầy
nhắc lại chuyện cóù người
nói với thầy là họ e ngại
cái thái độ đương đầu
quyết liệt của thầy đối với
bạo quyền Cộng sản sẽ có thể
dẫn đến chuyện không hay vì
" cứng quá thì sẽ gãy". Thầy
ung dung và khẳng khái trả lời,
" Ðừng sợ chuyện cứng
quá sẽ gãy. Vấn đề đặt
ra ở đây là mình có đủ
cứng hay chưa?" Câu nói trên đã
cho thấy tinh thần vô úy đã
được thể hiện một cách
cụ thể và rõ ràng qua nhà
tu bất khuất kiên cường Tuệ
Sỹ. Ðạo pháp và dân tộc
còn có ngày đi lên là cũng
nhờ vào tinh thần vô úy bất
khuất này.
Chuyện chủ nghĩa Cộng
sản vào Việt Nam để dần dần
biến người Việt Nam thành những
người không tim, trơ như gỗ
đá trước đau thương
khốn khổ của đồng bào ruột
thịt là chuyện đã quá rõ
ràng. Tuy nhiên nó chưa hẳn đã
tiêu diệt hết lòng thương của
con người dành cho cho người
lúc khổ nạn cùng cực. Phải
chăng là truyền thống nhân ái
ngàn năm đã làm cho con người
Việt Nam còn một chút tình người
để sưởi ấm cho nhau khi khó
khăn cùng cực.
Trong hồi ký " Giọt nước
trong biển cả" của nguyên phó chủ
tịch Quốc Hội Cộng sản Việt Nam
là Hoàng văn Hoan có thuật lại
chuyện trong thời kỳ cải cách
ruộng đất, Ðảng chủ trương
" đấu lý " để nâng cao giác
ngộ của nông dân và làm cho
địa chủ biết việc bóc lột
nông dân là không đúng, thì
các đội cải cách đã
để cho nông dân xỉ vả người
bị gọi là địa chủ, thậm
chí chủ trương để cho nàng
dâu xỉ vả mẹ chồng, con xỉ vả
bố mẹ, và người bị gọi
là địa chủ cứ phải cúi
đầu chịu, không được
thanh minh phải trái, có người
bị bao vây chặt chẽ đến nỗi
cơm không có ăn, hàng xóm hoặc
bà con quá thương phải giấu lén
đưa cho củ khoai, củ sắn sống
qua ngày. ( Trích từ trang 362 cuốn
hồi ký " Giọt nước trong biển
cả " ). Ðạo lý Việt Nam đến
hồi suy kiệt khi có những cảnh
con cái tố khổ cha mẹ, vợ chửi
mắng chồng trong cuộc cải cách ruộng
đất vào thập niên 50 trên đất
nước Việt Nam.
Chuyện giấu lén để
đưa củ khoai cho người nạn
nhân đang bị đấu tố, cô
lập cho thấy cái tình nhân ái
của con người Việt Nam dành cho
đồng loại của mình mặc dù
chế độ vô luân Cộng sản
đang ngày đêm làm thui chột
và mai một tinh thần cao thượng
và quý giá ấy. Những chuyện
lấy bào thai nuôi heo, chuyện anh em , bố
chồng, con dâu đối xử với
nhau đến độ lạnh lùng tàn
nhẫn trong những chuyện ngắn của
Nguyễn huy Thiệp đã nói lên
cái dửng dưng tàn nhẫn của
con người đã đến thời
kỳ báo động đỏ. Khi một
chế độ xã hội như chế độ
Cộng sản tại Việt Nam dần dần
làm cho con người mất hết nhân
tính, đối xử với nhau không
còn một chút tình người,
lạnh lùng và tàn nhẫn cùng
cực với nhau như kẻ thù thì
chuyện những tội ác kinh tởm
xảy đến trong xã hội đó
cũng sẽ không làm ai ngạc nhiên.
Trong baì thơ " Anh gặp em"
(1965) nhà thơ Nguyễn chí Thiện cho
biết ông có gặp một cô gái
trong tù. Cô bị bệnh lao nặng, và
qua giọng nói thì biết cô là
người miền Nam tập kết. Cô
gái được mô tả bởi
những nét chấm phá thê thảm
như sau
Anh gặp em trong bốn
bức rào dầy
Má gầy mắt trũng
Phổi em lao, chân em phù
thũng
Gió lạnh từng
cơn rú qua thung lũng
Em ngồi run, ôm ngực
còm nhom
Giữa bọn người
vàng bủng co ro
Những tiếng ho
Những cục đờm
màu
Mớ tóc rối
đầu em rủ xuống
Mình em, teo nhỏ, lõa
lồ
Dù cũng đang ở
tù, với bao nhiêu nhọc nhằn
khổ sơ dành cho bản thân mình,
nhà thơ Nguyễn chí Thiện cũng
không cầm được nước
mắt khi nhìn cô gái bệnh hoạn
đau thương này
Trong lòng anh bấy
lâu nay xám lại
Nhìn em lệ muốn chảy
dài
Tình thương của Nguyễn
chí Thiện dành cho cô gái tù
bệnh hoạn là một tình thương
cao quí, trong vắt và tha thiết . Ðó
là tình của con người dành
cho một con người.Ước mong
sao người Việt Nam nào cũng đối
xử với nhau bằng một tấm
lòng mẫn cảm, yêu thương như
thế thì đất nước Việt
Nam sẽ là xứ sở của thương
yêu, đùm bọc chứ không
phải xứ xở của ác cảm,
thù hận.
Nếu những người
đấu tranh hôm nay không góp công,
góp sức để giật sụp đổ
cái chế độ vô nhân phá
hoại văn hóa và nhân phẩm con
người đó thì coi như cũng
thuộc loại người dửng dưng
trước nỗi khổ của đồng
bào, thờ ơ với quê cha
đất tổ.
Tổ sư Cộng sản Các
Mác có câu nói để đời,
" Chỉ có loài thú mới quay
lưng lại với nỗi khổ của
đồng loại." Mác nói như vậy
chưa đủû. Nói như vậy chưa
đủ, con người Việt Nam hôm
nay còn tệ hơn con thú, không những
quay lưng mà còn hành hạ đồng
loại của mình
.Con đường đấu
tranh quyết liệt với Cộng sản
là con đường duy nhất mang lại
quyền làm người cho người
dân Việt Nam và từ đó
đề ra một lối sống phù hợp
với đạo lý ngàn năm của
đân tộc Ðó là lối sống
luôn tỏ bày lòng thương người
sâu xa, luôn đối xử tử
tế với nhau và sẵn sàng ra
tay cứu giúp đồng loại, đồng
bào trong cơn hoạn nạn, trầm luân.
Lawndale, một chiều mưa lâm
râm cuối tháng 5 năm 2002
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: PLEIKU
[email protected]
|