MỘT
CÁI NHÌN TỔNG QUÁT VỀ PHE TALIBAN
Nhiều ký giả
và nhà nghiên cứu đã
đào sâu và phân tích rõ
ràng về những hệ thống giá
trị và ảnh hưởng của chúng
đối với hành động của
phe Taliban, cũng như với dân chúng
và những cơ quan thiện nguyện. Tuy
nhiên thật là ngây thơ khi cho rằng
những hành động ấy chỉ
là do những hệ thống giá trị,
cũng như không được khôn
ngoan lắm khi loại trừ đóng góp
của những hệ thống giá trị
đến những phát triển lịch
sử. Quyền lợi riêng của những
nhân vật múa may quay cuồng trên sân
khấu chính trị A phú hãn cũng
là những yếu tố chính hình
thành nên tình hình hiện tại của
xứ sở bất hạnh này.
Như đã giải thích
trước đây, A phú hãn là
một quốc gia mới tồn tại chỉ
trên trăm năm nay. Trong hàng thế
kỷ, những tỉnh lỵ và làng
mạc nằm trong những đường
biên giới hiện nay đã dính
chặt không rời ra được
với thảo nguyên ở Iran, vùng
Trung Á và lục địa nhỏ Ấn
độ bằng sự đổi chác,
văn hóa, tôn giáo, và những
sự chinh phục chủng tộc và quân
sự. Dù những thung lũng vùng
núi của nó đã tạo ra một
phần nào đó sự ngăn cách
và đưa đến sự độc
lập hiểm trở, tính lưu động
trong lịch sử đã chứng tỏ
rằng những sự phát triển
trong vùng lớn rộng hơn đã
ảnh hưởng đến khung cảnh
chính trị, kinh tế, văn hóa và
tôn giáo của A phú hãn và
những lãnh tụ của những
thế lực mạnh trong vùng đã
có những quyền lợi khi can thiệp
vào những biến cố ở nơi
đây.
Khi quân đội Liên
Xô rời A phú hãn vào tháng
2 năm 1989, Pakistan đã đóng một
vai trò tích cực trong cố gắng
mang những phe kháng chiến Mujahidin, cả
phe cấp tiến lẫn truyền thống,
vào chung một ô dù duy nhất. Pakistan
cũng mang những đảng phái lại
với nhau vào năm 1992 và sau đó
đã đạt đến một sự
dàn xếp làm cho họ có thể
điều hành đất nước
một cách hữu hiệu. Sự thỏa
hiệp đạt tới lần đầu
tiên ở Peshawar vào tháng 4 năm
1992, trước sự chứng kiến
của thủ tướng Pakistan và những
đại biểu của Iran, Saudi Arabia và Liên
Hiệp Quốc, tất cả bao gồm một
ủy ban gồm 50 người, được
cầm đầu bởi Sibghatullah, sẽ
giành lấy sự kiểm soát Kabul
và chuẩn bị một con đường
đưa đến sự thành lập
một chính phủ lâm thời, được
lãnh đạo bởi Chủ tịch Rabbani,
người sẽ tiếp tục cầm
quyền thêm 4 tháng để đưa
đến sự thành lập một hội
đồng để bầu ra một chủ
tịch cho nhiệm kỳ 2 năm nữa. Rabbani
bố trí tìm cách tham gia vào cuộc
tái bầu cử bằng một tập
hợp một số người được
chọn vào tháng 12 năm 1992, nhưng sự
chống đối từ những đảng
khác đã dẫn đến chuyện
đánh nhau dữ dội ở Kabul.
Chuyện giao tranh chỉ đi đến chấm
dứt khi có sự can thiệp của
viên cựu giám đốc cơ quan
tình báo Pakistan, vốn là người
đã đóng một vai trò chủ
yếu trong việc hỗ trợ bảy đảng
kháng chiến Mujahidin trong thời kỳ
chiếm đóng của Liên Xô. Pakistan
cũng bảo trợ một hội nghị
giữa những đảng ở
Islamabad vào ngày 7 tháng 3 năm 1993 và
đi đến sự đồng ý
để cho Rabbani giữ chức chủ
tịch thêm 18 tháng nữa.
Trong khi chuyện này đang
tiến hành thì Dostam củng cố vị
trí của ông ở miền Bắc
và phát triển chuyện đổi chác
và những mối liên hệ khác
với những nước Cộng
Hòa Trung Á. Ðồng thời lúc
đó thì Ismail Khan cũng thành lập
một tiểu vương quốc bán độc
lập nằm ở Herat, và xây dựng
một liên minh gượng gạo đặt
trên căn bản quyền lợi hỗ
tương với Iran. Iran hoan nghênh sự
yên ổn mà Ismail Khan mang lại cho vùng
miền Tây A phú hãn và điều
này đã mang lại cơ hội cho ba
triệu người tỵ nạn A phú hãn
được hồi hương. Ismail Khan
nhận được nhiều viện trợ
từ Iran, và do đó ông giảm
bớt sự tùy thuộc nhiều vào
sự lãnh đạo của Rabbani và
Masoud mà ông vẫn còn nghi ngại. Tuy
nhiên ông vẫn lo ngại về ảnh
hưởng ngày càng tăng bất
thường của Iran ở vùng phía
Tây A phú hãn.
Sự sụp đổ của
Liên Bang Xô Viết đã làm cho
Hoa Kỳ không còn lý do để
tiếp tục chương trình ủng hộ
A phú hãn. Những viện trợ
quân sự đến cho kháng chiến
quân Mujahidin chính thức bị ngưng
vào ngày 31 tháng 12 năm 1991 và
viện trợ nhân đạo chấm dứt
vào đầu năm 1993. Hoàn cảnh
này đã mở ra cho Pakistan theo đuổi
quyền lợi của riêng họ.
Khi chuyện trật tự dần
dần được tái lập ở
Kabul sau những tháng vô chính phủ
kể từ khi có phe lên nắm quyền
vào tháng 4 năm 1992 là chính phủ
kháng chiến Mujahidin và câu hỏi
về quyền lãnh đạo được
giải quyết từ Hiệp ước
Islamabad, Pakistan vẫn tiếp tục can dự
vào những cuộc thảo luận với
những đảng kháng chiến Mujahidin
như là một phần trong những nỗ
lực của họ để tạo ra một
chính quyền vững mạnh ở
Kabul vốn sẽ ủng hộ quyền lợi
của Pakistan.
Tuy nhiên, Rabbani ngày càng
giữ khoảng cách với Pakistan.
Phe Pakistan lúc nào cũng đặt nhiều
hy vọng đến nhân vật Hekmatyar như
là một lãnh tụ có năng lực,
có quyền lợi hỗ tương với
Pakistan, và ngày càng cảm thấy
bất mãn khi nhìn thấy sự bất
lực của Hekmatyar có thể tạo thành
một sự chống đối hữu
hiệu với Rabbani và Masoud.
Pakistan cũng còn trở
nên ưu tư với chuyện Iran và
Thổ nhĩ kỳ đã đang phát
triển những mối liên hệ thương
mại mạnh mẽ với vùng Trung Á
và riêng với nước Iran
thì họ đang tạo ra một tiêu thụ
quan trọng cho sự đổi chác ở
vùng Trung Á ra tới biển Ấn
độ dương băng ngang qua Bandarabas, và
như thế là coi như cạnh tranh với
Karachi của Pakistan. Bộ trưởng nội
vụ Pakistan là Naseerullah Babar tìm cách
để đương đầu lại với
khuynh hướng này, và để
nhấn mạnh rằng Pakistan cũng là một
nơi tiêu thụ có triển vọng cho
sự đổi chác ở vùng
Trung Á, thông qua sự đề ra những
quan hệ quần chúng táo bạo đầu
tiên. Ông đánh động quần
chúng bằng cách du hành băng qua
A phú hãn một mình, xuyên qua Kandahar
và Heart, vào tháng 10 năm 1994 và
rồi thiết lập một đoàn đổi
chác để lo chuyện mua bán trên
lộ trình này. Phe Taliban đã bảo
vệ lộ trình này, do đó mới
có sự phỏng đoán là Pakistan
hỗ trợ cho phe Taliban.
Pakistan vẫn kiên quyết
từ chối lời đồn là
họ ủng hộ phe Taliban và không có
bằng chứng rõ ràng nào về
chuyện hỗ trợ của họ, mà
chỉ có những bằng chứng
do hoàn cảnh mạnh mẽ tạo rã
mà thôi. Tuy nhiên lời đồn
vẫn cứ cho rằng Pakistan đã
cung cấp tiếp liệu và huấn luyện
quân sự để hỗ trợ cho
sự tiến công của Taliban chiếm
những tỉnh phía Ðông A phú
hãn trong suốt mùa Ðông năm
1994-1995 và chuyện chiếm đóng Herat
và phía Tây quốc gia vào tháng
9 năm 1995. Nhiều tin đồn khác cho
rằng liên minh cũ của Hoa Kỳ, Pakistan
và Saudi Arabia một lần nữa lại
tái hoạt động, lần này là
để ủng hộ Taliban hơn là ủng
hộ phe kháng chiến Mujahidin.
Khi phe Taliban tiến vào Jalalabad
và rồi Kabul vào tháng 9 năm 1996,
họ đã làm nhiều người
ngạc nhiên. Tất cả những nguồn
dự đoán đều cho rằng phong
trào Taliban đã đuối sức
vì thất bại không tiến lên được
trong suốt 18 tháng bao vây Kabul. Sự
thay đổi bất ngờ trong chuyện
chiếm Kabul đã một lần nữa
dấy lên sự phỏng đoán rằng
phải có một bàn tay mạnh mẽ
đâu đó cung cấp sự hỗ
trợ có tổ chức và nhiều
đồ viện trợ. Những dòng
người mới gia nhập được
tuyển mộ từ những trại tỵ
nạn, những làng ở A phú
hãn và những đền đài
tôn giáo đều là những
người sẵn sàng hy sinh và càng
làm tăng thêm sức mạnh cho phe
Taliban.
Những phản ứng
quốc tế trước chuyện chiếm
Kabul của phe taliban vào ngày 26 tháng
9 năm 1996 đã tạo ra sự kiện
ngoạn mục. Vào ngày 3 tháng 10 , Thủ
tướng Pakistan là bà Benazir Bhutto
khẳng định rằng nếu phe Taliban cố
rán hợp nhất đất nước
A phú hãn, thì đó là một
chuyện làm đáng được
hoan nghênh. Trong khi hàm ý cho rằng bà
muốn thấy phe Taliban dễ dãi cho chính
sách về giới tính, bà nói
thêm rằng không phải nhiệm vụ
của bà là nói cho nhân dân
A phú hãn biết chính quyền nào
để lựa chọn. Một lần nữa
bà lại từ chối chuyện cho rằng
Pakistan đã hỗ trợ cho phe Taliban.
Vào ngày 4 tháng 10 năm
1996, Ðài phát thanh Pakistan đưa ra
lời bình luận : " Có vẻ phe Taliban
sung sướng hưởng sự ủng
hộ hoàn toàn của các tầng
lớp dân chúng đã quá
mệt mỏi vì chiến tranh cho nên muốn
chào đón viễn cảnh hòa bình
vừa mới xuất hiện ở
A phú hãn." Lời bình luận còn
bày tỏ sự hy vọng là nhà
cầm quyền Taliban sẽ áp dụng những
nguyên tắc bình đẳng, kiên
nhẫn chịu đựng, công lý
của Hồi giáo và sự tôn
trọng mọi thành phần xã hội,
đặc biệt là phụ nữ và
trẻ con. Nó còn bày tỏ thêm
sự hy vọng là phe Taliban sẽ không
cung cấp thêm bất cứ cơ hội
nào cho những kẻ phỉ báng Hồi
giáo.
Vào ngày 2 tháng 10 năm
1996, chỉ một vài ngày sau khi phe Taliban
chiếm được Kabul, một trong những
đảng phái Hồi giáo cấp tiến
của Pakistan là Jamiat-al-Ulema al-Islami do Maulana Fazl-ur-Rahman
lãnh đạo, tuyên bố họ sẽ
chuẩn bị một dự thảo hiến
pháp cho A phú hãn theo sự yêu
cầu của phe Taliban. Ðiều này được
đưa lên ban chấp hành của Ðảng
trước khi được gửi
đến cho phe Taliban.
Vào ngày 12 tháng 10
năm 1996 tùy viên ngoại giao ở
tòa đại sứ Saudi Arabian ở
Kabul gửi lời chúc mừng
của vua Saudi, và bày tỏ sự vui
mừng trước sự áp dụng
luật Hồi giáo ở A phú hãn
và hòa bình cùng an ninh đã
được thiết lập trên hầu
hết những vùng của A phú hãn
bởi phe Taliban.
Có những tin đồn
cho rằng Hoa Kỳ có cảm tình với
phe Taliban phần nào là do sự công
bố vào ngày 2 tháng 10 của công
ty dầu Hoa Kỳ UNOCAL, trong đó nói
rằng nó coi sự ưu thế mới
của phe Taliban là " một sự phát
triển tích cực". Nó thêm rằng
một chính quyền duy nhất sẽ mang lại
sự yên ổn và sẽ cải tiến
kế hoạch xây dựng những đường
ống dẫn dầu và khí ngang qua A phú
hãn từ vùng Trung Á. Những
tin đồn như thế cũng được
tạo ra bởi nền ngoại giao hoạt động
hơn của Hoa Kỳ ở A phú hãn
trong năm trước và bởi những
dấu hiệu trước đó nữa,
theo sau chuyện chiếm Kabul của phe Taliban, rằng
phía Hoa Kỳ sẽ tìm kiếm một
cuộc gặp gỡ với phe Taliban. Có
báo cáo cho rằng chính phủ Hoa Kỳ
nghe nói cũng cho rằng họ thấy không
có gì phải chống đối về
những chuyện mà Taliban đã làm.
Tuy nhiên, có lẽ vì quan ngại một
sự tiếp cận nồng nhiệt quá
mức có thể gây ra xung đột
một cách sống sượng với
làn sóng nổi giận của quốc
tế vì những chính sách giới
tính của Taliban nên bộ ngoại giao Hoa
Kỳ lên tiếng vào ngày 8 tháng
10 trong đó họ cảnh cáo phe Taliban
rằng sự công nhận chính thể
Taliban còn tùy thuộc vào những
quyền của phụ nữ A phú hãn
được tôn trọng hay không. Tuy
thế người phát ngôn viên
bộ ngoại giao Hoa Kỳ nói Hoa Kỳ sẽ
tìm kiếm sự liên lạc với
phe Taliban.
Ngược lại, Iran nổi
cơn thịnh nộ trong những lời
phê bình nghiêm khắc dành cho phe
Taliban. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1996, Ayatollah
Ali Khamanei trong một bài giảng vào ngày
thứ sáu, đã nói rằng,
" Chung quanh những quốc gia láng giềng
của Iran, có chuyện đang xảy ra nhân
danh Hồi giáo và một nhóm người
mà kiến thức về Ðạo Hồi
không biết như thế nào, đã
lao vào những hành động không
dính líu gì đến Ðạo Hồi
cả. " Sau đó ông nói thêm là
những hành động xảy ra ở
A phú hãn là những hành động
mà ông cho rằng đó là những
dấu hiệu rõ ràng nhất của
những bước đi phản động
và cuồng tín cùng sự bỏ
rơi chuyện nhân quyền. Ông còn
tố cáo chuyện Taliban nhận viện trợ
của Hoa Kỳ và nhấn mạnh thêm,
" Cả thế giới chứng kiến
chuyện Hoa Kỳ đề cao phe Taliban như
thế nào. Washington chẳng bao giờ
lên án cả. Ngược lại Hoa kỳ
còn ủng hộ phe Taliban đàn áp
những đối thủ khác."
Tiếp theo sau khi phe Taliban chiếm
được Kabul, Ngoại trưởng
của Iran là Ali Akbar Velayati công du vùng
Trung Á và Ấn Ðộ để
đẩy mạnh chuyện ngưng bắn và
sự thành lập của một chính
phủ rộng rãi nhiều thành phần.
Trong một thông cáo được cơ
quan thông tin Itan truyền đi ngày 15 tháng
10, ông Velayati đề cập đến
" lời nhấn mạnh gần đây
được những viên chức
Pakistan đưa ra thú nhận rằng Hoa Kỳ,
Saudi Arabia và Pakistan ủng hộ phe Taliban", và
nói thêm, " những người
đi theo một nhóm chính trị hay một
sắc dân nào không thể áp đặt
ý muốn của họ lên trên nhóm
ấy. Trong một bản lên tiếng theo sau
những cuộc thảo luận với
ngoại trưởng xứ Kazakhstan, cả
hai ngoại trưởng bày tỏ quan điểm
rằng sự tiếp tục của những
chiến dịch quân sự giữa những
phe tham chiến ở A phú hãn có
thể " làm mất ổn định tình
hình trong khu vực. "
Cũng giống như Iran, Liên
Xô coi chuyện Taliban chinh phục Kabul với
sự quan tâm sâu xa. Vào ngày 2
tháng 10 năm 1996, Tổng thống Boris Yeltsin
kêu gọi một hội nghị của những
nước độc lập trong Liên Hiệp
Chung. Vị cố vấn an ninh quốc gia của
ông nói rằng chiến thắng của
phe Taliban đã gây ra một sự đe
dọa nghiêm trọng đến những
quốc gia Cộng Hòa Trung Á vì, theo
như lời ông, phe Taliban muốn sát
nhập một số phần của họ. Có
tin loan báo rằng những tổng thống
của Kazakhstan, Uzbekistan, Kirghizistan và Tajikistan và
thủ tướng Nga sẽ gập nhau ở
Almaty, thủ đô của Kazakhstan.
Tổng thống Turkmenistan là
vị lãnh đạo Trung Á duy nhất
không đồng ý tham dự hội
nghị – Turkmenistan không ký vào bàn
hiệp ước an ninh chung của những
quốc gia độc lập trong khối thịnh
vượng ( Commonwealth of Independent States). Tuy nhiên
vào ngày 14 tháng 10, ngày gặp gỡ
một phái đoàn của chính phủ
Rabbani vừa bị truất phế, thì
Thủ tướng Victor Chernomyrdin của Nga
đã gặp với Tổng thống
Niyazov của Turkmenistan. Sau buổi họp, vị tổng
thống nói rằng Turkmenistan có ý
muốn có những hoạt động
hợp tác với Mạc-tư-khoa trong
chuyện giải quyết vấn đề khủng
hoảng A phú hãn. Ông nói thêm,"
Chúng tôi không hẳn muốn chia sẻ
những kết quả của hội nghị
Almaty. Chúng tôi tin rằng sự xung đột
ở A phú hãn và một vấn
đề nội bộ của A phú hãn."
Ông nói thêm là trong lúc này
mỗi phe đều phải " kiên nhẫn"
về những quan điểm khác biệt
của những quốc gia trong khối. Ông
nói Turkmenistan có những quan hệ láng
giềng thân thiện với toàn thể
dân số A phú hãn, và khẳng
định là xứ Turkmenistan không
muốn dính líu vào những vấn
đề của A phú hãn.
Trong một cuộc thảo luận
của Hội Ðồng Bảo An vào ngày
16 tháng 10, Nga và những đại
biểu Trung Á nói đến sự
de dọa của chuyện đánh nhau ảnh
hưởng như thế nào đến
những quyền lợi quốc gia của
họ và sự an ổn của toàn
khu vực. Hội Ðồng Bảo An đã
đưa ra một quyết nghị do Nga bảo
trợ.
Vào ngày 19 tháng 10,
Tổng thống Karimov của Uzbekistan tiếp đón
Tổng thống Farooq Leghri của Pakistan tại Tashkent.
Thông báo chung nhấn mạnh đến
chuyện cả hai vị lãnh đạo kêu
gọi ngưng bắn ngay tức khắc, đàm
phán hòa bình và cấm vận vũ
khí, được coi như mâu thuẫn
với vị trí lúc đầu của
Karimov, vốn từ khi đầu tháng
đã kêu gọi sự ủng hộ
dành cho Dostam. Tổng thống Leghari được
bộ trưởng dầu khí và tài
nguyên thiên nhiên của Pakistan tháp
tùng. Rất có thể câu hỏi dầu
Trung Á được chuyên chở
ngang qua A phú hãn tới một hải
cảng ở Pakistan được thảo
luận. Nghe nói tổng thống Pakistan đã
trấn an Uzbekistan rằng phe Taliban không có
tham vọng lãnh thổ nào ngoài biên
giới A phú hãn. Mặc dù có
một cuộc gặp gỡ tương tự
với Tổng thống Kazakhstan là Nursultan
Nazarbayer vào ngày 28 tháng 10, tổng thống
Kazakh đưa ra một lời cảnh cáo
rằng cuộc tranh chấp A phú hãn không
thể để tràn qua biên giới.
Ấn độ cũng được
tiên đoán là chọn vị trí
chống Taliban. Vào ngày 15 tháng 10, bộ
trưởng ngoại giao Ấn độ tuyên
bố là Ấn độ không có
ý định công nhận nhà cầm
quyền Taliban ở Kabul và sẽ tiếp
tục hỗ trợ chính quyền được
cầm đầu bởi Chủ tịch
Rabbani. Ông nói thêm rằng, dưới
những ảnh hưởng của những
thế lực nước ngoài ở
A phú hãn, sự công nhận chính
thức phong trào Taliban có nghĩa là
đồng ý với sự can thiệp
từ bên ngoài.
Mặc dù có những
cố gắng của phe Taliban nhằm hạ thấp
những liên hệ có thể có
với phe Taliban, Bộ trưởng nội
vụ Naseerullah Babar theo đuổi một vai trò
tích cực trong sự tìm kiếm
sự hòa giải giữa phe Taliban và
Dostam sau chuyện Taliban chiếm Kabul và sự
lật ngược thế cờ của
những lực lượng của Masoud
và Dostam từ những thành công
lúc đầu chiếm phía Bắc thủ
đô của phe Taliban. Sự lựa chọn
bộ trưởng nội vụ thay vì bộ
trưởng ngoại giao làm người
điều hợp của Pakistan đã
cho thấy ông Babar đã phát triển
những mối liên hệ tốt với
phe Taliban và càng chỉ rõ thêm sự
xuất hiện của Taliban đồng lúc
với chuyện ông Babar đã cho gửi
một đoàn công-voa băng qua Pakistan
cho thấy đây không phải là
chuyện làm ngẫu nhiên tình cờ.
Ông Babar có những
cuộc họp đầu tiên với phe
Taliban và Dostam vào ngày 15 tháng 10.
Dostam chống lại ý định về
chuyện đàm phán chỉ xảy ra giữa
ông ta và phe Taliban và kiên quyết
đòi hỏi tất cả những
thành viên của liên minh đối
kháng , bao gồm cả chính phủ bị
truất phế, được cùng tham
gia vào những buổi thảo luận.
Ðặt hy vọng vào vị trí thương
thảo này và sự chống đối
có thể có đối với bất
cứ thương lượng nào với
chính phủ vừa bị truất phế,
phái đoàn chính phủ Pakistan bao gồm
một chức sắc tôn giáo cao cấp
từ Pakistan, vốn là một người
cố vấn được tin cậy của
phe Taliban. Có lúc Dostam đồng ý
gặp gỡ phe Taliban, qua sự điều
hợpcủa ông Babar, không có sự
hiện diện của chính phủ truất
phế. Tuy nhiên Dostan vẫn khẳng định
là ông là phát ngôn nhân cho
một liên minh rộng lớn hơn.
Nhiều nhà quan sát cho
rằng công tác của ông Babar là
kết quả thất bại của phe Taliban nhằm
qua mặt những lực lượng
chống đối ở phía Bắc
Kabul. Nhiều người khác coi đó
như một cách để mua thời
gian trong khi Taliban tái lập chỗ đứng
quân sự. Dostam cố gắng nâng vị
trí thương thảo của ông trong cuộc
đàm phán bằng cách tăng cường
những lực lượng của ông
ở phía Bắc Kabul đang khi cuộc
nói chuyện đang tiến hành. Tuy nhiên
Masoud, đại diện cho chính phủ truất
phế, đưa ra một bản lên tiếng
vào ngày 18 tháng 10 trong đó ông
tỏ ý nghi ngờ về hiệu năng
của những cuộc thảo luận dưới
sự điều hành của ông Babar.
Ông cho rằng vì Pakistan sắp đặt
những cuộc nói chuyện như thế
cho nên khó mà lạc quan. Ông thêm
rằng Pakistan là người tạo ra
phong trào Taliban và không có ý
định thực sự nào trong chuyện
muốn giải quyết những vấn đề
A phú hãn. Vào ngày 28 tháng 10,
Dostam công khai tố cáo Pakistan ủng hộ
phe Taliban. Ðây là lần đầu
tiên ông đưa ra lời tố
cáo như thế. Viên bộ trưởng
nội vụ Pakistan cho rằng lời lên
án ấy không có căn bản gì
hết.
Nếu kéo những mảnh
rời của tình thế lại với
nhau, rõ ràng là có một chuyện
có thể xảy ra là phe Taliban như một
phong trào nhỏ tự nhiên nổi lên
ở Kandahar và đánh đúng
tình cảm vào lớp dân chúng
đang khát khao được sống
trong sự yên ổn của luật pháp
và trật tự. Sự được
lòng dân rõ ràng của họ nhanh
chóng gây được sự chú
ý của những người sống
ngoài A phú hãn nhìn thấy viễn
cảnh lợi thế của sự yên
ổn do phe Taliban có thể đem lại cho
A phú hãn.
Riêng Pakistan thì đã
từ lâu muốn tăng cường
sự liên hệ đổi chác với
Trung Á và quyền lợi này đã
được thúc đẩy mạnh
bởi sự xuất hiện của những
nước độc lập trong vùng Trung
Á theo sau sự sụp đổ của
Liên Bang Xô Viết vào năm 1991. Rõ
ràng là có sự lợi nhuận
trong chuyện tạo ra một lối thoát cho
dầu và khí Trung Á đi tới
biển Ấn độ dương xuyên qua
Pakistan, để có thể thu lợi kinh
tế từ đó. Pakistan lo ngại khi
thấy Iran đã có những kế
hoạch xây dựng những ống dẫn
dầu nối những vùng dự trữ
ở Trung Á không những chỉ
với vùng Vịnh và còn với
hệ thống dẫn dầu Âu châu xuyên
qua Thổ nhĩ kỳ. Ðã có nhiều
lần Pakistan trực tiếp vào chuyện
mở con đường này ( chẳng
hạn như sửa chữa xa lộ chính
và dàn xếp về những địa
điểm với những công ty
dầu), và đó là những
bằng chứng cụ thể về chuyện
tại sao Pakistan dính líu với phe Taliban
để phục vụ quyền lợi cho
quốc gia mình.
Như chúng ta đã thấy,
phe Taliban đã có thể huy động
những phong trào Hồi giáo trong vùng
biên giới của Pakistan hầu lôi
kéo tuyển mộ những người
trẻ khắp nơi trong nước theo họ,
trong đó bao gồm những trại tỵ
nạn A phú hãn, nơi có một số
người Hồi giáo cấp tiến
và những phong trào Hồi giáo
thiết lập những trung tâm dạy Hồi
giáo, nhiều nơi được quỹ
của Saudi tài trợ. Tiến trình
tuyển mộ được cải tiến
bằng cách kêu gọi những người
lãnh đạo bộ tộc trong những
khu vực của người Pushtun ở
A phú hãn, và những người
trong trại tỵ nạn, để gửi những
người trẻ đi chiến đấu.
Những sự kêu gọi này được
phản ứng tích cực, với
những gia đình có những
con trai di theo phong trào thánh chiến Hồi
giáo Jihad và đổi lại được
sự trợ giúp về tài chánh
từ bộ tộc và cải tiến tình
trạng sinh sống. Phong trào Taliban do đó
tùy thuộc nhiều vào sự ủng
hộ địa phương cũng như bắt
nguồn từ bên ngoài nước.
Khi phe Taliban ngày càng lớn
mạnh thì ba quốc gia đặc biệt cảm
thấy lưu tâm là Iran, Nga và Ấn
độ. Iran không những chống đối
Taliban chỉ vì chuyện tranh đua về đường
ống dẫn dầu và khí mà còn
có lý do để lo ngại phong trào
của phái Xu na cấp tiến sẽ gây
nhiều rắc rối cho phe Shi’a của Iran, đặc
biệt là ở Mashhad, nơi có ngôi
đền của Imam Reza hấp dẫn hàng
triệu người hành hương hàng
năm; một trái bom lớn đã
nổ trong đền vào tháng 6 năm
1994 trong một ngày lễ giữa lúc
có đông người dự ,
gây nhiều thương vong kinh khiếp. Ða
số dân tỵ nạn A phú hãn ở
Mashhad đã cung cấp một thiên đường
cho khủng bố, và dân số A phú
hãn ở đây vẫn còn đông
đảo khi nào phe Taliban vẫn còn nắm
quyền lực ở miền Tây A phú
hãn và tiếp tục gây ra nhiều
vấn đề. Những người
A phú hãn trở về từ Iran
bị phe Taliban phê phán là đã
không đứng vào phong trào thánh
chiến Hối giáo Jihad để chống
lại cuộc xâm lăng của Liên Xô,
và vì vậy mà nhiều người
tìm cách tỵ nạn ở Iran lần
thứ hai. Sự lo sợ khủng bố
tiếp tục lan rộng mặc dù phe Taliban
phủ nhận và cho rằng họ không
có ý định "xuất cảng" tín
ngưỡng của họ ra bên ngoài
biên giới A phú hãn, họ đang
phải đối phó nhiều với
cố gắng của chính quyền Saudi và
những tổ chức Hồi giáo
ở Saudi Arabia trong nhiều năm qua đã
tìm cách phổ biến hệ phái Wahabi
của đạo Hồi ( do Abd al-Wahhab sáng
lập) ở A phú hãn và Trung Á
để
từ đó phá hoại Iran.
Vào lúc ban đầu
của cuộc chiến tranh A phú hãn, Iran
mạnh mẽ chống Hoa Kỳ sau khi Ayatollah Khomeini
chiếm lên nắm quyền lực vào
năm 1979, và cảnh giác theo dõi sự
dính líu ngày càng tăng của
Hoa Kỳ và Saudi vào A phú hãn khi
cường độ cuộc chiến ngày
càng tăng. Iran tìm kiếm và tăng
cường mối dây liên lạc với
thiểu số người của phái
Shi’a ở trong nước và đưa
ra sự giúp đỡ cho những
đảng kháng chiến trong những
cộng đồng Shia ở A phú hãn,
khuyến khích hầu hết bọn họ
đoàn kết thống nhất với
nhau thành một đảng duy nhất là
Ðảng Hisb-e-Wahdat. Tuy nhiên, khi Ðảng
Hisb-e-Wahdat bị nhiều tổn thất ở
Kabul bởi những lực lượng
của Ittihad-i-Islami và Masoud, Iran thận trọng
duy trì những mối quan hệ tốt
với chế độ Rabbani và sự
hỗ trợ này được xây
dựng trong suốt những năm trước
khi phe Taliban chiếm Kabul. Iran cũng đóng
một vai trò chủ động trong việc
điều hợp giữa những
phe phái khác nhau, trong đó có
cả phe Taliban. Một chánh văn phòng
bộ ngoại giao tên Alauddin Borujerdi được
bổ nhiệm cho mục đích này.
Sau khi phe Taliban chiếm Kabul, Iran
đứng ra tổ chức một hội
nghị trong vùng tại Tehran vào ngày
29 và 30 tháng 10 năm 1996 để thảo
luận về tình hình A phú hãn.
Lời mời được gửi
đến cho Nga, Ấn độ, Pakistan, Trung
cộng, Saudi A rabia và những nước
Ðộc lập vùng Trung Á cũng như
những đại biểu của Liên
Hiệp Âu Châu, Liên Hiệp Quốc và
Hội Nghị Tổ Chức Hồi Giáo.
Pakistan, Saudi Arabia và Uzbekistan không tham dự
hội nghị này.
Iran cũng trở nên
quan tâm tới số phận sống còn
của số dân của phái Shi’a sống
ở vùng Hazarajat thuộc trung tâm A phú
hãn nếu phe Taliban chiếm khu vực này,
đó là những người
hưởng nhiều quyền độc lập
từ cuộc xâm lăng của Liên
Xô. Nhóm dân này chỉ chiếm
một phầm nhỏ về chính trị và
kinh tế dưới sự kiểm soát
của phe Pushtun từ thập niên 1880 cho
đến cuộc đảo chính của
Ðảng Nhân Dân Cách Mạng và
sự xâm lăng của Liên Xô đã
cung cấp cho họ cái cơ hội đạt
tới một nền kinh tế địa
phương tự trị , cho nên họ có
nhiều quyết tâm để chống lại
sự tiến tới của phe Taliban. Nhóm
dân này coi thường những
sự chống đối của phe Taliban khi
phe Taliban tuyên bố là họ sẽ tôn
trọng quyền của tất cả những
thành phần dân A phú hãn. Tuy nhiên
thái độ của phe Taliban đối
với nhóm Hazaras, vốn là nhóm
tương đối trung lập lúc đầu,
đã thay đổi rõ rệt kể
từ sau thất bại thảm hại mà
phe Taliban hứng chịu ở Mazar vào
tháng 5 năm 1997, Taliban trách cứ
Iran đã gây ra chuyện đó. Vì
vậy sau đó có tin đồn là
có một số đông người
phái Shi’ a sinh sống ở Heart và Kabul
bị cảnh sát bố ráp và bỏ
tù để ngăn cản họ không
cung cấp tiếp tế cho những lực
lượng khác.
Phe Taliban tố cáo Iran đã
cung cấp sự hỗ trợ cho những
lực lượng chống đối
ở miền Tây A phú hãn và
cũng tăng cường sự trợ
giúp cho cố gắng của Liên Minh Miền
Bắc để đối đầu lại
những cuộc tấn công của Taliban
ở phía Bắc và trung tâm A phú
hãn. Iran lên tiếng phủ nhận hoàn
toàn chuyện cung cấp sự hỗ trợ
nói trên.
Vị thế của Nga trong chuyện
liên hệ với phe Taliban thì không
được rõ ràng như Iran. Bóng
ma của Ðạo Hồi tăng trưởng
mạnh mẽ ở vùng Trung Á đã
là một sự chú ý của chính
sách ngoại giao của Liên Xô và
Nga kể từ đầu những ngày
đầu khi quân kháng chiến Mujahidin
chống lại Ðảng Nhân Dân Cách
Mạng, và đây cũng là mối
quan tâm chính yếu khi có những
cấp lãnh đạo của những
quốc gia trong vùng vội vã tìm đến
sau khi phe Taliban chiếm Kabul . Tuy nhiên bức
tranh còn phức tạp hơn nhiều và
sự phức tạp này là một
đặc điểm của những quyết
định xảy ra trong điện Kremlin và
trong sự thảo luận giữa những
lãnh tụ với nhau.
Trong khi đó quốc gia
Turkmenistan với một nền kinh tế què
quặt nên hết sức mong muốn những
ống dẫn dầu được xây
dựng để nước này có
thể bán khí đốt và dầu
ra những thị trường bên ngoài,
cho nên Turkmenistan giữ một thái độ
hết sức thận trọng về chuyện
Taliban lên nắm quyền. Những quốc
gia Cộng hòa khác trong vùng phê phán
công khai phe Taliban nhưng có những ý
kiến khác biệt nhau trong chuyện họ có
nên cung cấp viện trợ quân sự
cho phe Dostam và những thành viên
khác của Liên Minh Miền Bắc. Cố
vấn an ninh của Nga là tướng
Alexander Lebed nghe nói là đã thúc
giục Nga cung cấp sự hỗ trợ
cho những lực lượng của
Rabbani. Tuy thế, viên bí thư của Hội
Ðồng Quốc Phòng Nga tuyên bố
vào ngày 8 tháng 10 rằng cần phải
thận trọng trong tình trạng của A phú
hãn, Nga và những nước
Cộng Hòa khác trong vùng không nên
cung cấp viện trợ cho phe Dostam. Trong chuyện
này họ tự chế bằng cách
tăng cường vấn đề quốc
phòng trong biên giới phía Bắc,
bao gồm chuyện tăng cường những
lực lượng của những quốc
gia Cộng hòa, đa số trong đó
là người Nga.
Những quan sát viên
lúc đó bình luận là Nga, cho
dù là trong tình huống nào chăng
nữa, cũng khó mà can thiệp quân
sự một lần nữa ở A phú
hãn. Quân đội Nga được
trang bị với vũ khí yếu kém
và tinh thần thấp, còn lực lượng
quân sự mới thành lập ở
những nước Cộng Hòa Trung
Á chưa chuẩn bị kỹ cho chuyện
tác chiến. Người ta có cảm
tưởng rằng ngay cả nếu viện
trợ quân sự được
cung cấp cho phe Dostam, điều này cũng
không bảo đảm chuyện ngăn chận
nổi sự tiến quân của Taliban. Cũng
có sự hoang mang trong những nước
ở Trung Á về chuyện có nên
gay cấn với phe Taliban hay không khi đặt
trên vấn đề quyền lợi
của những nước ấy, bằng
cách ủng hộ phe Dostam, khi mà họ cần
băng qua những vùng miền tây
A phú hãn để cải thiện vấn
đề trao đổi thương mại.
Tuy nhiên Nga lo lắng về
chính sách của Taliban không can thiệp
vào nước ngoài có thể
thay đổi nếu họ chiếm toàn
nước, hay có những thành
viên trong phe Taliban sẽ khuyến khích và
hỗ trợ những phong trào Hồi
giáo ở Trung Á. Một bản lên
tiếng của người lãnh đạo
phong trào kháng chiến ở Tajikistan
cho biết rằng ông không loại trừ
chuyện thỏa hiệp với phe Taliban, bằng
cách ủng hộ sự nổi dậy từ
lâu của phe Tajik từ A phú hãn.
Còn có những yếu
tố khác làm cho Nga phải lo lắng
về sự hiện diện của Taliban ở
A phú hãn. Trong bản lên tiếng chính
thức, Nga lo ngại là phe Taliban sẽ
trải rộng Ðạo Hồi cấp tiến
trong vùng Trung Á và do đó sẽ
lôi kéo sự ra đi một số
người thuộc sắc tộc Nga ở
những nước Cộng Hòa Trung
Á về Nga, và điều này sẽ
làm cho Nga không lo lắng chu toàn cho những
người ra đi này. Nga cũng bày
tỏ sự lo ngại là nếu Taliban chiếm
vùng phía Bắc A phú hãn, nhiều
người sẽ đi tới những
nước Cộng Hòa Trung Á, và
sẽ tạo nên một vấn đề
tỵ nạn mà Nga không thể đảm
đương nổi.
Dù cuộc chiến A phú
hãn đã để lại những
vết thương sâu đậm, nhưng dưới
cái nhìn của một số người
thì đó là một yếu tố
đóng góp vào sự tan rã
của Liên Bang Sô Viết, vì thế
nên Nga ưu tư về chuyện cần có
những lý do chiến lược tốt
đẹp để duy trì sự kiểm
soát biên giới phía Bắc A phú
hãn. Nga cũng miễn cưỡng từ
bỏ sức mạnh Nga đang có ảnh
hưởng ở vùng Trung Á và
mối đe dọa Taliban đã là một
yếu tố giúp Nga duy trì sự hiện
diện quân sự ở đây một
cách hợp tình hợp lý, kèm
theo với ảnh hưởng chính
trị và kinh tế, đối với
một số nước Cộng Hòa, đặc
biệt là nước Tajikistan. Thêm vào
đó, sự tiến quân của Taliban
đã làm ngưng trệ chuyện xây
dựng những ống dẫn dầu
băng qua A phú hãn để chuyên
chở khí đốt và dầu tới
những thị trường khác ngoài
Nga, vốn là nước vui vẻ khi có
những khế ước ưu tiên
cho phép Nga khai thác những kho dự
trữ có giá cả dưới
giá thị trường quốc tế.
Tuy nhiên nhữáng dẫn dầu của
Iran sẽ phá vỡ thế độc
quyền đó.
Thật khó mà đoán
sự lo ngại của Nga đối với
Ðạo Hồi cấp tiến đến
mức độ nào thì mới
được coi là hợp lý.
Chắc chắn là sự khủng hoảng
xã hội, vốn đã ảnh hưởng
trong vùng trước sự sụp đổ
của chủ nghĩa cộng sản và như
là kết quả của những tai họa
tác động đến sức khỏe
của hàng triệu người, đã
là miếng đất màu mỡ
cho những tôn giáo căn bản sinh
sôi nẩy nở. Saudi Arabia đã nhiều
năm tìm cách khai thác điều
này, đặc biệt trong vùng thung lũng
màu mỡ Ferghana nằm ở giữa
Kirghizistan, Uzbekkistan, và Tajikistan, nơi có
những phong trào cấp tiến đã
hoạt động trong nhiều thập niên
và có những nhà truyền giáo
Thiên Chúa làm việc mạnh mẽ.
Có những người quan sát
như Ahmed Rashid, tác giả của cuốn sách
giá trị " Sự sống lại của
vùng Trung Á " ( The Resurgence of Central Asia), coi gia
đình, bộ tộc và những liên
hệ về chủng tộc đã ngăn
chặn được phong trào Hồi
giáo tấn công.
Hiệp ước hòa
bình mới đây được
ký giữa chính phủ Tajikistan và
những kháng chiến quân Hồi
giáo trấn giữ vùng núi phía
Ðông quốc gia này đã minh
chứng cho điều đó. Vào
tháng 1 năm 1993, một cuộc nội chiến
khốc liệt đã đẩy những
người tỵ nạn từ Tajikistan
vào A phú hãn. Một số được
cho lưu trú ở một địa điểm
sa mạc gần Mazar và số khác đến
vùng Kunduz, vốn đã được
phát triển thành một trung tâm cho
những người Hồi giáo cấp
tiến. Trong nhiều năm những kháng
chiến quân tung ra những trận đánh
từ lãnh thổ A phú hãn đến
quân những nước Cộng hòa
đóng dọc theo biên giới giữa
Tajikistan và vùng phía Ðông-Bắc
A phú hãn, với sự hỗ trợ
của phe Jamiat-i- Islami. Với chuyện Taliban
chiếm Kabul và chuyện truất phế phe
Jamiat ra khỏi quyền hành ở thủ
đô, nên Masoud cầu cứu Tajikistan
xin yểm trợ. Cả Iran và Nga đều
ý thức được sự
hỗ trợ như vậy nên được
tiếp tay và họ khuyến khích Tajikistan
nên ký thỏa hiệp. Dù con đường
đi đến hòa bình còn lâu,
đây là quyền lợi mà phe
kháng chiến đồng ý thỏa hiệp
với những chính phủ được
Nga ủng hộ khi những quyền lợi
chiến lược cần đến.
Sự lo ngại rằng Taliban
sẽ truyền bá đạo Hồi cấp
tiến trong vùng Trung Á đã làm
cho người ta phỏng định rằng
họ có tham vọng ấy, dù đó
là điều mà họ luôn chối
bỏ. Cho dù có người tin sự
chối bỏ ấy thì dĩ nhiên không
loại trừ khả năng có một
phong trào tách ra vào một thời
điểm nào đó trong tương
lai, tìm kiếm sự hỗ trợ đến
những phong trào cấp tiến ở
Trung Á. Tuy thế tín ngưỡng của
Taliban không dễ dàng đi vào những
xã hội vùng Trung Á. Ở một
chừng mực nào đó, nó
phản ánh rất nhiều kinh nghiệm A phú
hãn, nhưng nó không thích hợp
với những xã hội rã rời
ở vùng Trung Á nơi mà mỗi
nước Cộng Hòa chứa đựng
những nhóm sắc dân và đó
là kết quả của những chính
sách định cư bắt buộc của
Stalin. Vùng Trung Á cũng đã kinh
nghiệm với cuộc sống thế tục
và sự tương đối bình
đẳng giữa nam nữ. Khi phe Taliban
chiếm chính quyền, những cộng
đồng xa xôi ở A phú hãn,
vốn giữ tình trạng nguyên vẹn
trong những trại tỵ nạn, thì giờ
đây lại trở về truyền
thống bảo thủ cao độ. Tuy nhiên
có nhiều đổi thay ở vùng
Trung Á làm cho người ta nhìn
rõ hơn vào cái truyền thống
nguyên thủy. Người ta có thể
tranh luận rằng Ðạo Hồi cấp
tiến đã bám rễ vào những
thành thị ở Âu châu để
phản ứng lại sự kỳ thị
thì tương tự nó cũng có
thể đi sâu vào vùng thành
thị tương đối ở Trung Á,
nhưng những điều kiện không
hẳn đã giống nhau. Những người
Nga gốc Âu châu không còn giữ
vị trí khống chế ở Trung Á
và không thể theo đuổi sự
kỳ thị loại này vốn hiện hữu
ở Âu châu.
Ngược lại, tín
ngưỡng của phe Taliban đã ảnh
hưởng nhiều đến dân số
người Pushtun ở Pakistan và do
đó tăng tiến thêm mật khu quyền
lực của những đảng Hồi
giáo cấp tiến nằm ở biên
giới. Phóng viên BBC ở Islamabad
tường trình vào ngày 13 tháng
10 năm 1996, hai tuần sau khi phe Taliban chiếm
Kabul, rằng nhiều người ở
Pakistan lo lắng về vấn đề tham
nhũng và kinh tế xuống dốc ở
Pakistan sẽ làm cho những sinh viên
ở những Học viện Hồi giáo
sẽ nhiễm sự hăng hái từ
phe Taliban và đóng một vai trò tích
cực hơn trên sân khấu chính
trị. Ông nói chuyện xử tử
Najibullah và sự thất bại của Taliban
trong chuyện tìm kiếm một thỏa hiệp
với Dostam, nhắm đến sự
thành lập một chính quyền toàn
quốc ổn định, đã làm
cho nhiều người nghĩ Taliban chiếm
Kabul là một chuyện làm tích cực
giờ đây đâm ra lo lắng.
Sự khó chịu này đã được
biểu lộ trong chuyện Pakistan vội vã tái
mở cửa tòa đại sứ
của Pakistan ở Kabul và chuyện này
càng làm cho nhiều nước khác
thận trọng, đắn đo hơn trong chuyện
thiết lập ngoại giao với Taliban.
Không hiểu những phong
trào như thế có lan rộng đến
Ấn độ hay không thì chưa ai biết
nhưng quan điểm của Abdul Ala Maududi ( bản
thân ông từ Ấn độ) đặt
căn bản ở vùng này. Ấn
độ rõ ràng muốn tiếp tục
công nhận Burhannudin Rabbani như là một
tổng thống hợp pháp của A phú
hãn. Từ lâu Ấn độ có
quyền lợi chiến lược trong
chuyện tìm kiếm sự cản trở
tham vọng của Pakistan muốn tạo ra một
khối Hồi giáo đề kháng kéo
dài từ Pakistan qua A phú hãn tới
tận vùng Trung Á. Tuy nhiên Ấn độ
cũng ngại không kém về vấn
đề Taliban sẽ làm lộn xộn mối
quan hệ tế nhị giữa phe Ấn giáo
và Hồi giáo ở Ấn độ,
mối quan hệ này vốn đang bị
đe dọa vì chủ nghĩa cấp tiến
ngày càng lên cao giữa những
người Hồi giáo và Ấn
giáo.
Có thêm một vấn
đề đặt ra nữa là nếu
đường ống dẫn khí đốt
và dầu được xây dựng
ngang qua A phú hãn thì liệu Taliban có
thể ngăn chặn nổi ảnh hưởng
văn hóa Tây phương hay không, khi
có một số lượng lớn
công nhân Tây phương tới
để xây dựng và bảo trì
những đường ống này.
Câu chuyện dài dòng này có
nhiều tình tiết lý thú cần
nên nói lại như sau. Trước
khi phe Taliban chiếm Kabul, một công ty A căn
đình tên Bridas nhận được
quyền đào khí đốt từ
những mỏ dầu của Turkmenistan, nhưng
chính phủ Turkmen được một
công ty Mỹ là UNOCAL đề nghị
một hợp đồng cao hơn, do đó
mà hủy bỏ hợp đồng với
hãng Bridas. Hãng Bridas đưa chính phủ
Turkmen ra tòa và cạnh tranh ráo riết
với công ty UNOCAL để giành
được sự chấp nhận hợp
đồng từ phe Taliban để có
khế ước xây dựng những
đường ống dẫn dầu trong
nước A phú hãn. Phe Taliban chưa
ký nhưng có ý thiên về công
ty Á căn đình Bridas. Khi phe Taliban chiếm
Kabul, hãng UNOCAL lên tiếng chúc mừng
phe Taliban và mong là sẽ có sự
ổn định. Tuy nhiên, những bản
lên tiếng sau đó có vẻ thận
trọng hơn và nói rằng công ty
chưa thấy đủ an ninh để xây
dựng ống dẫn dầu, và đoán
rằng cũng phải mất vài năm
mới có thể làm được.
Mặt khác, một hợp đồng đã
được ký giữa UNOCAL, hãng
dầu Delta của Saudi Arabia, Pakistan và chính
phủ Turkmen vào tháng 7 năm 1997 cho phép
xây dựng một đường ống
dẫn dầu nối Turkmenistan với Pakistan
băng qua A phú hãn và đã
bắt đầu vào cuối năm 1988.
UNOCAL đưa ra lời bình luận rằng
nó sẽ không bắt đầu chuyện
xây dựng cho đến khi chính phủ
được quốc tế công nhận
hoàn toàn kiểm soát đất nước
A phú hãn. Bất chấp hợp đồng
này, phe Taliban công bố ngày 28 tháng
8 rằng họ chấp nhận hợp đồng
với công ty Bridas và hợp đồng
đã đi đến giai đoạn cuối
để được ký kết. Bridas
tỏ ý cho biết là họ sẽ sẵn
lòng nghĩ đến chuyện xây cất
dưới những điều kiện
không được an toàn cho lắm.
Trong khi đó, Iran ký kết một thỏa
hiệp với Turkmenistan vào tháng 5 năm
1997 để cung cấp sự xây dựng
ống dẫn dầu nối dầu và
khí đốt của Turkmen đến những
đường dây của Iran và Turkmenistan
và sau đó chở đi Âu châu.
Iran do đó được coi như người
chạy đầu cuộc đua. Thỏa hiệp
được đạt tới vào
tháng 5 năm 1996 trong đó Kazakhstan bắt
đầu xuất cảng dầu băng qua
Iran, chuyển giao dầu thô cho những
cơ sở lọc dầu của Iran ở
biển Caspian để đổi lại được
cho phép xuất cảng dầu từ những
hải cảng trong vùng vịnh của Iran.
Cũng giống như chuyện
bị cuốn hút vào trong những
mối lợi nhuận dầu và khí
đốt toàn cầu, phe Taliban cũng là
những tay chơi không thể tránh
trong sự trao đổi bạch phiến quốc
tế. A phú hãn là nơi sản xuất
thuốc phiện lớn nhất thế giới,
từ đó bạch phiến được
bào chế ra cả ở trong nước
A phú hãn và ở vùng rộng
lớn hơn. Sản lượng tăng
25 phầm trăm trong năm 1997, những năm
trước số lượng sản xuất
lên xuống bất thường. Phe Taliban
bối rối trước chuyện buôn
bán bạch phiến, ngăn cấm dùng
bạch phiến nhưng đưa ra những
thông điệp mù mờ về sản
lượng thuốc phiện. Nhiều bản
lên tiếng mới đây cho biết
là vì nghèo khó nên những
nông dân ở A phú hãn không
còn lựa chọn nào hơn là
phải trồng thuốc phiện. Tuy nhiên,
điều này không phù hợp
với những chứng cớ
nhỏ nhặt cho thấy chuyện trồng cây
thuốc phiện phần lớn nằm trong
tay những địa chủ lớn,
vốn thay đổi số lượng tùy
theo sự thay đổi tùy theo thị trường
quốc tế dưới mệnh lệnh của
những kẻ kiểm soát thị trường
này. Những người nghèo
ở A phú hãn chỉ thu được
lợi chừng nào có nhu cầu
thuê mướn lao động theo mùa
để trông coi chuyện gặt hái thuốc
phiện, vốn là một chuyện làm
cực nhọc, và chừng nào những
nông dân nhỏ được yêu
cầu để cung cấp sản lượng
thuốc phiện cho những chủ đất
lớn. Giọng điệu ân hận này
của phe Taliban liên quan đến chuyện
trồng thuốc phiện không phù hợp
với những lời lên tiếng
của báo chí Taliban trong những tháng
đầu chiếm Kabul khi họ cho rằng họ
đã tịch thu số trữ lượng
bạch phiến trong nước A phú hãn
và phá hủy những phòng bào
chế bạch phiến. Vào ngày 7 tháng
11 năm 1996, Ðài tiếng nói Shari’a
tuyên bố là một phòng bào
chế bạch phiến ở Nangarhar bị
bố ráp. Vào ngày 14 tháng 12 ,
Ðài tiếng nói Shari’a tường
thuật chuyện một số lượng lớn
bạch phiến tính đưa ra nước
ngoài bị tịch thu ở phi trường
Jalalabad.
Sự khó hiểu này
cũng là một chứng cớ khi
đề cập đến khủng bố.
Có sự suy luận rằng CIA có thể
ủng hộ cho phe Taliban phần nào được
hâm nóng bởi những bài
tường thuật có nhiều cảm
tình ở giới truyền thông
Taliban khi cho rằng phe Taliban đã tịch
thu nhiều hỏa tiễn phòng không Stinger
và người Mỹ muốn thân
thiện với phe Taliban để lấy
lại những hỏa tiễn này. Vì
Hoa Kỳ rất sợ những hỏa
tiễn này rơi vào tay những tổ
chức khủng bố trên khắp thế
giới. Ðiều suy luận như thế
cũng coi như mâu thuẫn khi có sự
hiện diện của trùm khủng bố Osama
Bin Laden, người được xem là
cung cấp tài chính cho những phong
trào khủng bố tấn công vào
những căn cứ quân sự
của Hoa Kỳ ở Saudi Arabia. Bin Laden di chuyển
tới Kandahar vào tháng 4 năm 1997
sau khi chính phủ Saudi lên tiếng phản
đối cho rằng ông ta tự do thi
hành những hoạt động của
ông mà không có sự cản
trở nào từ căn cứ
cũ của ông ở phía Bắc
Jalalabad.
Quyền lợi có thể
có của Hoa Kỳ trong chuyện ủng hộ
phe Taliban cũng đi đôi với
chuyện Hoa Kỳ lên tiếng chống đối
Iran. Cho đến cuộc bầu cử vào
giữa năm 1997, Iran có được
một tổng thống ôn hòa thì lúc
đó Hoa Kỳ mới không thể
tránh né trong vấn đề lưu tâm
đến viễn cảnh Iran sẽ đóng
một vai trò luân lưu sản lượng
dầu ở Trung Á. Từ khi có
cuộc bầu cử, Hoa Kỳ có một
thái độ hòa hoãn hơn đối
với Iran, và vào tháng 7 năm
1997, dù vẫn ở trong tình trạng
cấm vận Iran, Hoa Kỳ không chống đối
một dự án được đồng
ý vào tháng 5 năm 1997 dùng khí
đốt Turkmen băng qua Iran rồi tới
Thổ nhĩ kỳ và cuối cùng đến
Âu châu.
Vai trò có thể có
của Mỹ do đó cân nhắc đến
quyền lợi. Như đã nói ở
trên, Mỹ gặt quả từ phía
Taliban lên cầm quyền bằng cách
hỗ trợ mạnh mẽ cho những
đảng Hồi giáo cấp tiến lưu
vong ở Pakistan, nằm trong mục tiêu chiến
lược là làm yếu Liên Bang
Xô Viết. Những đảng này
từ đó có thể phát triển
sức mạnh ở căn cứ đóng
tại những trại tỵ nạn của Pakistan,
để rồi giáo dục và huấn
luyện một thế hệ đàn em mới
theo sau nằm trong những viện mồ côi,
những đền thờ và những
học viện Hồi giáo. Những cơ
quan giáo dục này là những trung
tâm tuyển mộ những người
tình nguyện chiến đấu cho phe Taliban.
Thêm vào đó, bằng
cách giúp đỡ quân sự
cho những đảng kháng chiến Mujahidin,
Mỹ cho phép Pakistan làm trung gian để
chuyển vận những đồ viện
trợ và tạo ảnh hưởng
tới những nơi phân phối
đồ. Pakistan do đó được
mạnh lên bởi Mỹ khi theo đuổi
quyền lợi chiến lược của
riêng mình, trong đó bao gồm ý
muốn kiểm soát ai là người
cầm quyền ở Kabul và đồng
thời nuôi dưỡng những
người lãnh đạo truyền thống
có tinh thần độc lập.
Pakistan có thể nghĩ rằng
phe Taliban muốn tái lập xã hội đi
tới tình trạng truyền thống
như ở những vùng thôn dã,
thì phải nhanh chóng tạo lập sự
hỗ trợ giữa những bộ
tộc người Pushtun ở phía Nam
A phú hãn. Phe Taliban dường như
có sức hấp dẫn hơn những
đảng Hồi giáo vì học không
tìm cách lật đổ những cấu
trúc đã được quyết
định vốn luôn tồn tại và
thay thế chúng với những cấu
trúc mới thích hợp với
những đảng phái chính trị.
Họ cũng không tìm kiếm sự
áp đặt một ý thức hệ
ngoại lai nào. Thay vào đó, tín
ngưỡng của họ biểu tượng
bằng sự trở về tình trạng
vốn hiện hữu trước chủ
nghĩa tự do của thập niên 1950 đã
đảo lộn mọi thứ. Phong trào
Taliban cũng hấp dẫn được
một số thành phần của giới
trẻ, và không thấy gặp khó
khăn khi thu nhận những thành viên
sẵn sàng tử vì đạo. Pakistan
cảm thấy Taliban có cơ hội tốt
để chiếm đóng vòng đai
của người Pushtun, và nếu được
hỗ trợ, nó có hy vọng lấy
luôn cả nước như Abdur-Rahman đã
từng làm vào cuối thế kỷ
thứ 19 với sự giúp đỡ
của người Anh. Sự ổn định
mà họ có thể cung ứng sẽ
mang lại cho Pakistan hai phần thưởng:
một là có đường giao thương
với Trung Á và tạo thành sức
mạnh chiến lược để đương
đầu với Ấn độ.
Hoa Kỳ cũng có quyền
lợi trong chuyện tạo nên sự yên
ổn trong vùng này. Với một Liên
xô cũ đang trong tình trạng yếu
kém về chính trị và kinh tế,
Hoa Kỳ đương nhiên không thể
tránh quan tâm đến tình trạng
không có một quốc gia ở biên
giới phía Nam của những quốc
gia Cộng Hòa độc lập, nơi không
có sự kiểm soát thực sự
nào và là nơi bào chế thuốc
phiện cùng buôn lậu, khủng bố
và buôn bán vũ khí được
tổ chức mà chỉ có sự
kềm chế tối thiểu để kiểm
soát mà thôi. Những quốc gia
Cộng Hòa vùng Trung Á đã là
con đường chính cho bạch phiến
A phú hãn đi tới Âu châu.
A phú hãn cũng hăm dọa là
sẽ làm bất ổn vùng Trung Á
nếu cuộc chiến lan tới vùng
Amu Darya, hay nếu những lực lượng
chống đối ở Trung Á được
hỗ trợ bởi phía Nam biên
giới. Cũng có câu hỏi nêu
lên về trữ lượng dầu
và khí đốt vùng Trung Á,
vốn cần bảo đảm chuyện bán
ra những thị trường thế
giới. Do đó không thể không
có câu hỏi về chuyện Hoa Kỳ
có thể nhìn phe Taliban như là một
nguồn lợi có thể có.
Tuy thế, những phe ủng
hộ Taliban không thể mong ước Uzbeks,
Tajiks và Hazaras chịu thúc thủ dễ
dàng trước những gì mà
nhóm thiểu số miền Bắc coi họ
như lực lượng Pushtun vốn được
Pakistan dùng để thi hành chế độ
thực dân ở A phú hãn. Sự
lo ngại của Iran lúc này là phong
trào Hồi giáo phái Si ở biên
giới của họ có thể dẫn
đến chuyện hỗ trợ cho nhóm
chống đối miền Bắc. Chắc
chắn là những lãnh tụ chống
đối là những du khách thường
xuyên tới Tehran và đặc sứ
của Iran tới A phú hãn là
Alauđdin Borujerdi đã thăm viếng những
lãnh tụ miền Bắc trong nhiều dịp,
cũng như đã có những cuộc
thảo luận với phe Taliban. Ðây
là trường hợp mà cả
Pakistan lẫn Iran có vẻ ủng hộ những
phía chống đối nhau trong cuộc nội
chiến cùng chung với những nước
Cộng Hòa Trung Á, chỉ có trường
hợp ngoại lệ là nước
Turkmenistan chỉ giúp đỡ theo từng
thời kỳ. Cho nên khi Dostam bất thình
lình tái xuất hiện ở biên
giới phía Bắc A phú hãn vào
tháng 9 năm 1997, sau khi bị đẩy ra
khỏi chính quyền vào tháng 5 trước
đó, có tin đồn rằng Uzbekitan
và Iran đã tạo điều kiện
dễ dàng cho sự trở lại của
ông ta.
Hoa Kỳ chịu trách nhiệm
về tình trạng hiện nay tới mức
độ nào? Nếu Hoa Kỳ không cung
cấp vũ khí cho bảy đảng do
Pakistan lựa chọn thì kết quả của
cuộc chiến có khác không? Có
thể nhân dân A phú hãn sẽ
chiến đấu với quân Liên
Xô ngay cả khi không có sự ủng
hộ của Hoa Kỳ. Có thể họ sẽ
chiến đấu thiếu hữu hiệu
hơn là họ đã làm, nhưng
họ đã chứng tỏ rõ ràng
là họ có khả năng làm suy yếu
chế độ của Ðảng Dân Chủ
Nhân Dân trước khi có sự
giúp đỡ từ bên ngoài
đem tới. Hơn nữa, chỉ một
phần viện trợ vũ khí Hoa Kỳ
được coi là tới những
kháng chiến quân ở A phú hãn.
Phần lớn vũ khí bị rơi
rải theo nhiều hướng khác nhau
ở Pakistan, và đã tạo nên
một không khí nhiễm mùi súng
đạn khắp Pakistan chưa từng có
trước đó. Những lý
do nội tại bên trong Liên Xô dẫn
đến quyết định cuối cùng
là rút quân ra khỏi A phú hãn
có thể không chịu ảnh hưởng
rõ ràng lắm bởi sức mạnh
quân sự của phe kháng chiến, dù
tinh thần xuống thấp của cựu
chiến binh Liên Xô đã rõ ràng
đóng góp vào sự u sầu
trong xã hội Liên Xô. Cho dù sự
viện trợ của Hoa Kỳ có tạo
nên sự khác biệt trong nỗ lực
chiến tranh, thì rõ ràng nó ảnh
hưởng đến sự cân bằng
của quyền lực trong nước A
phú hãn, tạo nên một chính phủ
thay phiên nhau đặt căn bản trên
Liên Minh bảy đảng và có thể,
góp một bàn tay tạo nên một chính
phủ thay thế trong hình thức Taliban.
Không có trường hợp nào
cho thấy một chính phủ được
sinh ta từ tiến trình bầu phiếu,
và những nỗ lực của Liên
Hiệp Quốc và những tổ chức
khác nhằm mang những người
cấp tiến và những người
chủ trương kỹ trị ( technocrats) để
lập ra một chính phủ hay để tìm
cách đưa vị vua cũ Zahir Shah về
trị vì. Nhưng những nỗ lực
này đều thất bại. Cũng có
ý kiến cho rằng phải chăng chủ
nghĩa cấp tiến là một thành
phần không thể tránh trong tiến trình
chính trị A phú hãn, như đã
biểu lộ trong chế độ của Ðảng
Dân Chủ Nhân Dân, những đảng
phái kháng chiến Mujahidin hay phe Taliban, hoặc
liệu chủ nghĩa cấp tiến chỉ hấp
dẫn đối với những người
bên ngoài A phú hãn như là
một phương tiện để theo đuổi
những quyền lợi riêng và
do đó làm cho nó mạnh lên nơi
mà đúng ra nó đang tàn tạ.
Phần đóng góp
của Saudi Arabia cũng là vấn đề
quyền lợi. Chính phủ Saudi ít
nhiều nhìn thấy tất cả những
sinh hoạt ngoại giao xảy ra ở A phú
hãn. Nghe nói là Saudi tập trung chủ
yếu vào sự tạo nên một sự
phát triển văn hóa dưới
hình thức những ngôi đền,
trường, học viện Hồi giáo
mới hơn là hoạt động ngoại
giao, nhưng con dấu của nó in rõ ràng
nơi tín ngưỡng của Taliban và
trong một cung cách mà Taliban đang hành
xử. Saudi Arabia nhìn thấy cơ hội
do sự chiếm đóng của Liên
Xô trên đất nước A phú
hãn để từ đó mở
rộng ảnh hưởng của nó ở
đây. Nó cũng hy vọng chống
lại bất cứ ảnh hưởng
nào mà Iran có thể có ở
A phú hãn.
Nhiều nhà quan sát nghĩ
rằng thật là khó cho Saudi Arabia cung cấp
nhiều bằng cách hỗ trợ tài
chánh cho phe Taliban: nó phải cần đi
qua Pakistan, và nghe nói có sự chống
lại ảnh hưởng Ả rập trong những
cơ cấu của chính phủ Pakistan, do có
một số lượng lớn những
người Ả rập tình nguyện chiến
đấu trong hàng ngũ kháng chiến
trong thời kỳ chiếm đóng của
Liên Xô. Tuy nhiên có thể nguồn
tài trợ có thể đến từ
những cơ quan phi chính phủ tìm
kiếm để truyền bá đạo
Hồi trường phái Wahabi vốn phát
triển ở Saudi Arabia, và từ những
sự thu góp trong những đền
thờ ở Saudi Arabia và từ
những cá nhân giàu có , để
rồi đến A phú hãn từ
con đường này hay con đường
khác.
Khi nhận định về
những phản ứng từ bên
ngoài tới những gì đang
xảy ra ở A phú hãn, tốt hơn
là nói đến những yếu
tố trong mỗi địa phương hơn
là trong chính phủ. Vì thế ở
Pakistan, những hoạt động quân sự
và chính trị có khuynh hướng
đè nặng lên chính sách đối
với A phú hãn, với cánh
chính trị hầu như bất lực.
Tương tự như vậy, những đảng
phái Hồi giáo cấp tiến, đặc
biệt là Ðảng Jamaat-I-Islami, và mới
đây là Ðảng Jamiat-al-Ulema-Islami
đã đóng một vai trò chủ
yếu trong chuyện hỗ trợ nhóm
kháng chiến Mujahidin và phe Taliban một
cách tương ứng. Có nhiều
đảng ở Pakistan, bao gồm luôn
chính phủ, đã tỏ ý hối
tiếc sâu xa về nền văn hóa
súng đạn hình thành từ
cuộc chiến A phú hãn và từ
đó có một ảnh hưởng
đặc biệt tới Karachi. Họ tranh cãi
về chuyện Pakistan nên ngưng những
cố gắng ảnh hưởng đến
những biến cố ở A phú
hãn và nên ưu tiên cho một sự
dàn xếp. Hơn nữa, những
người cổ động cho sự
đổi chác ngày càng tăng với
Trung Á và sự xây dựng những
đường ống dẫn dầu thì
có khuynh hướng cổ võ cho một
sự dàn xếp hòa hoãn trong cơ
hội mới nhất. Tuy thế, những
người có quyền lợi trong
vấn đề ma túy và buôn lậu
có những chương trình hoạt
động khác và chuyện này dẫn
đến sự tiếp tục bất ổn.
Chuyện này đi ra ngoài cuốn sách
của ông trong vấn đề mô tả
và phân tích những mối quan
hệ giữa những phe phái khác
nhau. Tất cả những gì người
ta có thể nói là sự phức
tạp của những quan hệ này đã
sinh ra những trở ngại không thể
vượt qua nổi theo cái cách mà
những người được
ủy nhiệm để đạt tới
một sự dàn xếp hòa bình
đối với sự tranh chấp ở
A phú hãn.
Dường như Pakistan có
một hồ sơ đại chúng lớn
nhất trong mối quan hệ với Taliban,
dù Pakistan luôn chối bỏ về bất
cứ sự dính dáng nào về
chuyện hỗ trợ cho phong trào Taliban.
Thật khó mà đoán được
kết quả sẽ như thế nào. Ngay
cả chuyện nếu Taliban chiếm toàn nước,
họ cũng khó mà duy trì sự
kiểm soát của họ đối với
vùng biên giới phía Bắc. Những
bộ tộc người Pushtun có thể
cuối cùng sẽ tuyên bố sự
độc lập của họ và như thế
là quốc gia lại bị vỡ ra từng
mảnh. Liệu thế giới bên ngoài
lúc đó có để cho những
chuyện như thế xảy ra không, hay có
những phong trào mới sẽ được
tạo ra để làm tăng thêm lợi
nhuận của những nước láng
giềng của A phú hãn và thế
giới rộng hơn bên ngoài?
Nhìn tới tương
lai, chúng ta có thể có đủ
lý do mà tin chắc chắn rằng những
thành phần quyền lực ở
Pakistan sẽ tiếp tục tìm kiếm sức
mạnh chiến lược để đương
đầu với Ấn độ từ
tổ chức có mối liên hệ
mạnh mẽ và từ ảnh hưởng
và sức mạnh lớn hơn đối
với A phú hãn và vùng Trung
Á. Tương tự như vậy, chúng
ta có thể chắc chắn rằng Nga và
những nước Cộng Hoà Trung
Á quan tâm lo lắng đến chính
phủ ở Kabul tán thành đạo
Hồi, cho nên cần phải có những
bước chủ động để làm
tăng thêm sức mạnh những
phong trào Hồi giáo ở Trung Á.
Dù thị tộc ( clan) và những người
trung thành khác sẽ hành động
như một cái thắng trên sự
ra đời của một phong trào Hồi
giáo mạnh mẽ trong vùng, sự lo
ngại này thành sự thật mặc
dù có những vấn đề
kinh tế lớn lao.
Iran cũng được
trông cậy để đối phó
lại với ảnh hưởng của
phái Si đạo Hồi đang lên ở
A phú hãn. Iran đã chứng tỏ
quyết tâm giúp đỡ những
lực lượng kháng chiến ở
phía Bắc A phú hãn trong cố gắng
chặn đứng hướng tiến
tới của phe Taliban.
Tương tự như thế,
người ta có thể chắc rằng
cho dù phe Taliban có chiếm miền Bắc
và trung tâm A phú hãn hay không
thì phe Tajiks, Uzbeks, Hazaras và Turkomans sẽ
cảm thấy ít gần gũi với
tín ngưỡng của phe Taliban hơn là
với phe Pushtuns ở miền Nam. Tuy nhiên,
thật là thiếu khôn ngoan nếu tiên
đoán bất cứ kết quả
nào từ sự ác cảm tương
đối này.
Bất cứ ai muốn phê
phán về những chính sách và
hành động của phe Taliban có thể
phải hiểu thấu cảm tình và
dành sự thông cảm cho tình trạng
mà người A phú hãn đang
sống trong đó. Phong trào Taliban có
thể coi là một sản phẩm của sự
xung đột vốn bắt đầu từ
cuộc đảo chính dân sự năm
1978 và sau đó là cuộc xâm
lăng của Liên Xô, là do sự
mệt mỏi của người dân với
chiến cuộc triền miên và sự
bất mãn của họ đối với
những lãnh tụ kháng chiến đã
thất bại trong chuyện đoàn kết
và tạo ra một chính phủ bền vững.
Sự xung đột là kết quả của
một trò chơi vĩ đại, của
sự sợ hãi Liên Xô cho rằng
nếu Hoa Kỳ thiết lập chỗ đứng
ở A phú hãn thì những
tỉnh phía Nam sẽ lộ ra và dễ
bị tấn công. Do đó vấn đề
trách nhiệm quốc tế là một
yếu tố quan trọng. Cả Liên Xô
và Hoa Kỳ đều đổ vũ
khí và những nguồn tài trợ
khác vào A phú hãn với mức
độ lớn, đặc biệt là
trong thập niên 1980. Họ cũng có củng
cố những phong trào chính trị
tương đối ít có sự
ủng hộ ở địa phương
và tùy thuộc vào sức mạnh
chiến đấu, ít nhất một phần
vào những người sẵn sàng
chiến đấu khi được trả
lương. Sự thất bại của những
phong trào này khi muốn tạo nên một
chính phủ đã tạo nên những
điều kiện cho một phong trào quần
chúng rộng lớn thật sự nổi
lên. Taliban chính là phong trào quần
chúng này đã cung cấp củ
cà rốt về viễn cảnh ổn định
cho những quốc gia có liên đới
quyền lợi tới A phú hãn
như Pakistan và Hoa Kỳ. Với mức
độ mà những quốc gia này
đã cung cấp sự hỗ trợ,
cả Hoa Kỳ và Pakistan trong thời kỳ
Liên Xô chiếm đóng từ
khi Taliban ra đời, hai nước này
phải tiếp tục mang lấy trách nhiệm
về những gì hiện đang xảy
ra ở A phú hãn.
Rõ ràng là chúng
ta có hai tiến trình đồng thời
và tương phản nhau. Một mặt thì
cộng đồng quốc tế, hiện thân
là Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc, kêu gọi những phe liên hệ
hãy chấm dứt đánh nhau và
cũng kêu gọi những quốc gia khác
chấm dứt bất cứ sự
can thiệp nào vào vấn đề A
phú hãn. Ðồng thời chúng
ta thường có những yếu
tố đối nghịch nằm ở
Pakistan, Iran, những quốc gia Cộng Hòa
Trung Á, và Hoa Kỳ, nền kinh tế
xã hội đen quốc tế, kỹ nghệ
dầu hỏa, những đường
dây buôn lậu và đổi chác,
phong trào Taliban và Liên Minh Miền Bắc
có the có đủ sức để
kéo dài cuộc chiến.
Nếu chúng ta nói đến
cộng đồng quốc tế chấp nhận
trách nhiệm để chấm dứt
sự xung đột, thì những phương
cách cụ thể để đạt tới
sự thay đổi tích cực là
những phương cách gì? Thật
khó cho mỗi phe trong cuộc xung đột
đồng ý về con đường
tiến tới, hình thức dàn
xếp lâu dài là sản phẩm của
sự can thiệp từ bên ngoài
trong một thời gian dài hay là giải
quyết theo truyền thống riêng của
đất nước A phú hãn? Liệu
sự tiếp máu của nguồn viện
trợ từ bên ngoài sẽ làm
cho nền kinh tế tăng trưởng hay
làm tồi tệ thêm tình hình? Không
thể có những câu trả lời
dễ dàng cho những câu hỏi đó.
Người ta chỉ có thể nói
chắc chắn là cộng đồng quốc
tế rõ ràng có một trách nhiệm
tiếp tục là làm sao để mang
sự xung đột đến chỗ kết
thúc.
Phầøn đóng góp
của những cơ quan thiện nguyện cũng
khá phức tạp. Về phần xấu
thì họ chỉ đóng vai trò của
những diễn viên trên một sân
khấu đầy tràn, nên chỉ làm
tệ hại hơn tình hình chứ không
làm giảm bớt nó. Về phần
tốt, họ làm giảm nhẹ đi tác
hại của cuộc chiến đè nặng
trên dân chúng và đồng thời
làm tăng thêm sức mạnh của
cấu trúc chính quyền, làng xã
và láng giềng tới mức
độ ít nhất là tạo ra một
ít trật tự trong tình trạng ngày
càng báo hiệu sự xuống dốc
tệ hại.
Tuy nhiên, họ sẽ phải
luôn đối phó với những
tình trạng tiến thoái lưỡng
nan là họ sẽ phải bỏ qua hay chống
lại tình trạng vi phạm nhân quyền
nặng nề hay giảm sút trong chuyện thương
thảo để có phương cách
giúp người dân có được
nhân quyền. Họ cũng sẽ phải
cân bằng giữa sự nghiêm trọng
của nhu cầu và sự nguy hiểm về
vấn đề an ninh của toàn thể
nhân viên trong nước và nước
ngoài. Vị trí mà họ nhắm tới
sẽ nối kết một cách không
thể rời ra được tới
sự năng động phức tạp
giữa Tây phương và thế giới
Hồi giáo , hay trong trường hợp
của những cơ quan Hồi giáo, trong
thế giới Hồi giáo.
Cho nên một lần nữa
thật khó mà tìm một con đường
dễ dàng để tiến tới
phía trước. Ðiều quan trọng
là ít nhất phải nhận thấy sức
mạnh quan hệ khác biệt giữa Tây
phương và thế giới Hồi
giáo cùng vị trí chủ động
tất yếu được gìn giữ
bởi những giá trị phương
Tây. Những hành động coi Hồi
giáo theo kiểu khuôn sáo cũ hay dùng
nó như là một thứ dê tế
thần rõ ràng không ích lợi
gì, chuyện đó cũng giống như
Taliban nhìn Tây phương dưới
con mắt thành kiến tiêu cực nên
tạo ra những ảo tưởng hoang
đường thiếu phần chân
thật. Những chính phủ có thể
hành động tích cực bằng
cách coi chuyện kỳ thị tôn giáo
như là một chương trình nghị
sự chính trị, coi nó cũng có
tầm quan trọng như chuyện kỳ thị
giới tính, chủng tộc để
rồi họ mới có thể đưa
ra những biện pháp để đối
phó lại với sự sợ hãi
do Hồi giáo gây ra.
Tình trạng tiến thối
lưỡng nan mà những cơ quan
thiện nguyện gặp phải khi đối đầu
với phe Taliban cũng tương tự
như tình hình ở Miến Ðiện,
Somalia, Liberia, Rwanda, Burundi, Bosnia và trong nhiều
trường hợp xung đột khác
nữa. Những cơ quan cuối cùng
sẽ không tránh được chuyện
bị coi như là những đại sứ
của quốc gia nguyên thủy của họ.
Do đó họ có khả năng để
làm giảm bớt mức độ
vi phạm nhân quyền từ những
sự thương thảo liên hệ đến
sự quan tâm có hệ thống. Mặt
khác, từ những nguồn tài
trợ đó, đồng thời
bỏ qua đi những vi phạm và như
thế là đưa ra một thông điệp
cho rằng những quốc gia viện trợ
sẵn lòng giúp dù họ có quan
tâm đến vấn đề nhân
quyền. Những cơ quan có những
tin tức khá hạn chế để
đánh giá bất cứ tình
hình nào, cả đến khả năng
đạt tới một sự thay đổi
tích cực và sự đáp
ứng có thể có của những
giới chức quyền lực về
bất cứ sự tăng thêm hay từ
khước viện trợ nhân đạo.
Họ còn phải xem xét những chính
sách và quan điểm của những
người ban tặng. Những người
ban tặng sẽ phải đối phó tới
ý kiến quần chúng của quốc
gia họ và với nhiềm nhóm quyền
lợi khác, như những công ty
dầu, những xưởng chế vũ
khí và những ai có quyền lợi
kinh tế tới những quốc gia tiếp
giáp với vùng xung đột. Những
quốc gia viện trợ sẽ tìm cách
cân bằng sự quan tâm của quần
chúng về vấn đề vi phạm nhân
quyền với những quyền lợi
và lên tiếng kêu gọi sự
thận trọng để đáp ứng
công khai với chuyện vi phạm. Những
người đang cần nhận đồ
cứu trợ là những con tốt
đáng thương trong tình trạng mâu
thuẫn này.
Khi xem xét những tiêu
chuẩn trong tiến trình đối thoại
với phe Taliban, có lẽ điều
tốt nhất cần phải làm sáng
tỏ là chúng ta đặt ưu tiên
hàng đầu vào dân số của
Kabul và Herat, ở đây người
dân có những giá trị rõ
ràng khác hẳn với những
giá trị của phe Taliban và có lẽ
điều này tạo thành tiếng vang
mà lãnh tụ Mullah Omar nói những
binh sĩ của ông là phải đối
xử với người dân Kabul
đàng hoàng, tử tế và
mở rộng chính sách này đến
tận tỉnh Herat. Khi thiết lập sự tập
trung chú ý này, sự quan tâm
chính thức của những cơ quan
thiện nguyện là sự cải tiến
sự nghèo đói và sức
khỏe kém, và từ đó sinh
ra sự uyển chuyển khi thương thảo
về vấn để tách biệt phụ
nữ khi liên hệ tới y tế
và việc làm. Những văn phòng
có thể áp lực mạnh về vấn
đề giáo dục và sự huấn
luyện những kỹ năng để
cung ứng cho những thiếu nữ
để chuyện y tế và những
dịch vụ giáo dục có thể cung
ứng cho thiếu nữ và phụ
nữ trong tương lai. Giáo dục là
một lãnh vực khó hơn bởi
vì những khía cạnh tôn giáo,
văn hóa và ý thức hệ,
và cách tiến tới phải được
thương thảo trên căn bản đối
thoại giữa những thành phần
khác nhau của dân số A phú hãn
và phe Taliban. Trong lúc này, người
A phú hãn sẽ tìm cách riênh
của họ để cung ứng giáo
dục, cho dù là ở trong nhà,
thông qua những trường đặt
ở nhà phục vụ cho một số
gia đình hạn chế, hay gửi con gái
họ sang học ở Pakistan hay Iran.
Nếu chúng ta tìm kiếm
những kết luận từ cuộc xung
đột A phú hãn cho những văn
phòng thiện nguyện trong những tình
trạng xung đột khác ở trên
thế giới, có lẽ yếu tố
quyết định là nhu cầu mà
người trong cuộc cần tìm thông
tin cho chính họ về những điều
phức tạp của tình hình. Ðể
đạt được chuyện này
với một mức độ vừa
phải, và có thể mất thì giờ,
có thể đặt ra phương cách
tiến tới hay uyển chuyển có
thể có. Những hệ thống giá
trị luôn luôn có thể là những
yếu tố quan trọng trong bất cứ
sự dính líu nào giữa thế
giới viện trợ và những
người được hưởng
viện trợ. Nhân dân A phú hãn
đang sống những ngày đói
áo, đói cơm mà quốc tế
muốn viện trợ đến những
người dân bất hạnh này
cũng phải gặp những luật lệ
gay go và ngu xuẩn của phe Taliban. Cho đến
nay ( 2002) thì chế độ Taliban bị sụp
đổ, vấn đề cứu trợ
được dễ dãi hơn trước.
Những trẻ gái bắt đầu
được cắp sách đến
trường chứ không còn bị
cấm đoán như ở dưới
thời hai tên cuồng sát và
cuồng dâm Omar và Bin Laden nữa.
Ðiều người
ta ghi nhận rõ nét nhất là chế
độ Taliban dính líu quá sâu dậm
đến Hồi giáo. Không hiểu hai
tên Omar và Bin Laden diễn dịch kinh Koran
của Hồi giáo như thế nào mà
chính sách cầm quyền của chúng
bị thế giới nói chung lên án
là man rợ, phản văn minh. Ngay cả
những học giả Hồi giáo chân
chính cũng không chấp nhận lối
diễn dịch kinh Koran cứng ngắt và
xuyên tạc của hai tên này. Cứ
nhìn chế độ Taliban khắc nghiệt
thân Hồi giáo của Omar và Bin Laden
rồi chế độ Khomeini ở Iran cũng
lấy Hồi giáo làm " khuôn vàng
thước ngọc" để cai trị thì
người đâm ra có ác cảm
với Hồi giáo vì Omar, Bin Laden và
Khomeini đã hiện nguyên hình là
những tên sát thủ tàn bạo,
cai trị xã hội với một bàn
tay sắt và tạo ra không khí độc
tài, sắt máu đến độ
ngộp thở.
Sau khi Khomeini chết, mặc dù
Iran vẫn giữ nguyên đường
lối cai trị lấy đạo Hồi làm
nòng cốt nhưng dần dần đời
sống chính trị ở Iran tương
đối dễ thở và có không
khí dân chủ nhiều hơn. Omar và
Bin Laden đang là những con thú cùng
đường chạy trốn vào những
hang động chờ ngày hủy thể
nên dân chúng A phú hãn đã
bắt đầu có một ít không
khí tự do để thở. Tiến
trình dân chủ sẽ đến với
quốc gia nhiều đau thương bất
hạnh này trong những ngày sắp
tới là điều chắc chắn
nhưng không phải là không gặp những
khó khăn đang chờ đón
vì tàn dư của Taliban và El Quada vẫn
còn lẩn trốn đâu đó
trong đất nước A phú hãn
và sẵn sàng ra tay phá hoại.
Người ta hy vọng rằng
với một chính phủ dân chủ
có nhiều năng lực, với
sự hỗ trợ nhiệt tình của
quốc tế, chắc chắn quốc gia A phú
hãn sẽ tiến lên phía trước
để mang lại cơm no áo ấm cùng
nếp sống dân chủ tự do cho toàn
dân. Những đám quân tàn
dư phá hoại của Omar và Bin Laden rồi
cũng tàn lụi theo thời gian vì
dân chúng trong nước cũng như
quốc tế không còn ủng hộ chúng
nữa.
Một tương lai sáng lạn
nhất định sẽ đến với
con người và đất nước
A phú hãn và không một trở
lực nào có thể ngăn chận
nổi. Trên đất nước hoang
tàn đổ nát đau thương này,
người dân đang nỗ lực
xây đựng tất cả lại từ
ban đầu và chắc chắn họ sẽ
thành công rực rỡ như sự
mong ước của mọi người
khắp năm châu.
Lawndale, một đêm hoang vu
mát lạnh đầu tháng 3, 2002
Trần Viết
Ðại Hưng
|