OMAR,
PHE TALIBAN VÀ CỘNG ÐỒNG QUỐC TẾ
Omar xuất
thân từ một gia đình nông
dân ở Singesar ở vùng phía
Tây-Nam A phú hãn vào năm 1960. Vốn
là một tín đồ thuần thành,
ông qua Pakistan để học về thần
học, ở một trong những chi nhánh
của trường dạy kinh Koran tên Madrassa
nằm gần Karachi. Những trường
này cung cấp một nền giáo dục
cho những học sinh hiếu học xuất
thân từ những nhà nghèo.
Rất ít người
biết đến Mohammad Omar cho đến đầu
thập niên 1980, khi ông xuất hiện với
tư cách một người lãnh tụ
du kích chống lại lực lượng
Liên xô ở A phú hãn. Ðó
cũng là thời gian mà ông có
dịp tiếp xúc với người
bạn tri kỷ đồng hành là Osama
Bin Laden, để rồi tình bạn này
vượt qua bao nguy khốn để đi
đến chuyện nắm quyền lãnh
đạo quốc gia.
Một thời gian
ngắn sau khi ông lập ra phong trào Taliban
vào mùa Xuân năm 1994, Mohammad Omar được
dân làng Singesar của ông cho biết
là có hai cô gái địa phương
bị trói, cạo đầu và bị
hiếp dâm tập thể bởi một
số lính kháng chiến Mujahidin. Mohammad
Omar tập trung lại chừng 30 cựu kháng
chiến quân, tìm ra hai cô gái, giải
thoát cho họ và treo cổ những
người lãnh đạo Mujahidin có
dính líu đến chuyện hiếp dâm
trên.
Vì những hành
động man rợ giống như hành
động trên của phe Mujahidin có thể
đã dẫn đến chuyện Omar ban
hành một lề lối cai trị khắt
khe trên cả nước. Phong trào Taliban
ra đời ngẫu nhiên nhiều hơn
là có tổ chức để kiểm
soát sự hỗn loạn vô chính
phủ sau khi những kháng chiến quân
Mujahidin được Hoa Kỳ hỗ trợ
lật đổ chính phủ Cộng sản
của Najibullah từ Kabul, đây là
chính quyền đầu tiên dốc toàn
lực giải quyết tình trạng rối
ren của xã hội.
Về nội bộ,
phe Taliban tìm cách tiêu diệt một cách
có hệ thống những lãnh chúa
kháng chiến Mujahidin và những cai
thầu ma túy khắp nước. Họ
được coi là một phong trào
tái lập một trật tự tối thiểu
trong khi cả nước trong tình trạng
hỗn loạn.
Mohammad Omar nói với
một phóng viên Pakistan Rahimullah Yousifzei như
sau, " Chúng tôi chống đối những
người Hồi giáo đi sai đường.
Làm sao chúng tôi im lặng được
khi thấy tội ác xảy ra đối
với đàn bà và người
nghèo?" Tuy nhiên bởi vì sao đó
mà phe Taliban ngày càng đi sai đường
và mất hết thiện cảm của dân
chúng, nhất là chuyện cho Bin Laden mượn
đất A phú hãn để làm
nơi huấn luyện và nuôi dưỡng
khủng bố đã làm cho cả thế
giới có cái nhìn ác cảm
với A phú hãn.
Chính phủ Taliban
ban hành luật lệ căn cứ chặt
chẽ theo kinh Qu’ran, cấm đoán tất
cả những hoạt động có thể
làm xao lãng chuyện cầu nguyện, chuyện
này phản ảnh tâm thức cá
nhân của Omar và Bin Laden. Ðối với
Omar, đây là phản ứng vì
quá khứï xuất thân nghèo
khổ của ông; đối với
Bin Laden là phản ứng vì tuổi
trẻ lầm lỡ của ông và
ông dấn thân để tạo sự
chú ý cho đòi hỏi của ông.
Ðứa trẻ ngỗ nghịch Bin Laden
rán tìm sự vỗ về của người
cha đã bỏ rơi ông khi ông mới
mười tuổi. Mohammad Omar trộn lẫn
tri thức của truyền thống Pushtun với
luật Hồi giáo trong sự chữa
chạy của ông đối với căn
bệnh quốc gia mà ông lên cầm
quyền, dù với sự tình cờ
chứ không hoàn toàn chủ ý,
sắp đặt.
Kết quả là
chế độ Taliban của ông ban hành
lệnh cấm gần như tất cả những
thú vui trần thế. Tôm hùm, truyền
hình, chiếu bóng, tráng men, tượng
hình, đồ chơi nhồi bông, Internet,
dĩa computeur, âm nhạc không tôn giáo,
khiêu vũ, dụng cụ âm nhạc, bài,
cà-vạt, cờ, son môi, pháo bông,
đàn bà lái xe, nữ sinh và
thả diều là những thú vui vật
chất đều bị cấm.
Coi như phe Taliban mất
nhiều thiện cảm của dân chúng
vì những lệnh cấm quá nhiều
dựa trên luật Sharia Hồi giáo trong
đó có chuyện chặt chân tay, chặt
đầu, ném đá và tra tấn,chuyện
bắt đàn bà bận áo chùng
kín, không cho phụ nữ đi học
và ngay cả chuyện cấm bác sĩ
đàn ông đụng chạm đến
thân thể đàn bà . Người
khiêm khắc đưa ra những lệnh
này sống khổ hạnh ở Kandahar
có một cá tính rất e thẹn và
đó chính là Omar. Ông đã
ban những hạn chế cá nhân lên
trên phong trào ông lập ra.
Tuy nhiên Mohammad Omar
không phải là thứ ngu ngốc.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ
nhật báo Dăwn ở Pakistan năm 1997,
ông tuyên bố A phú hãn sẽ
bị Hoa Kỳ tấn công và dùng
Osamar Bin Laden như một cái cớ vì
phe Taliban đã từ chối không
cho một công ty Mỹ xây dựng một
ống dẫn dầu chạy từ Turkmenistan
qua A phú hãn và Pakistan cho đến
Ấn độ dương. Thật ra Hoa Kỳ
thật sự nhảy vào vòng chiến
với chế độ Taliban của Omar và
tổ chức khủng bố Al Qaeda của
Bin Laden sau chuyện hai tòa nhà Trung tâm
thương mại thế giới tại New
York bị tấn công ngày 11 tháng 9
năm 2001.
Thường thường
" văn hóa" không bao giờ là
một bộ phận trọng yếu và đồng
nhất của những truyền thống
và tục lệ, nhưng đó là
một nguồn dồi dào, thường
chứa đầy những mâu thuẫn
nội tại, và là một nguồn thường
được chọn lựa ở những
chương trình sắc tộc, văn hóa
và tôn giáo nằm trong những
mối liên hệ đặc biệt và
bàn luận chính trị.
Những chiến
sĩ kháng chiến Mujahidin hành quân
trên những ngọn núi ở A
phú hãn trong thập niên 1980 thường
được đi kèm với một
ký giả Tây phương cỡi trên
một con lừa, bận áo dài vạt
ngắn shalwar kameez , đội khăn che đầu
và đeo đủ những đồ
lỉnh kỉnh trên người. Khi tường
trình về những hành động
anh hùng của những chiến sĩ
tự do, những ký giả có thể
đưa ra một thông điệp rất
đơn giản về sự dũng cảm
quân sự của những kháng chiến
quân trong khi họ còn phải đối
diện với rất nhiều khó khăn.
Ngày mà quân
đội Liên xô rút ra khỏi A phú
hãn thì hình ảnh đẹp đẽ
ngày xưa của kháng chiến quân
thay đổi. Hình ảnh của những
kháng chiến quân Mujahidin trở thành
kẻ phản động, họ đánh lẫn
nhau và không thể tạo lập một chính
quyền. Ðột nhiên tình hình trở
nên phức tạp. Thật khó mà
biết rõ ai đánh ai và lý
do tại sao. Truyền thông báo chí không
muốn tường thuật gì nữa
và dường như phần còn lại
của thế giới cũng không còn
muốn biết những gì xảy ra ở
đất nước xa xôi hẻo lánh
này.
Sự xuất hiện
của Taliban vào tháng Mười 1994
gây sự chú ý cho báo chí
vì sự thành công ngoạn mục
của họ trong chuyện chiếm lấy một
vùng lớn chỉ trong một thời
gian ngắn, và bởi sự từ
khước của họ đối với
chuyện giáo dục dành cho phụ nữ
và chuyện ban bố những chỉ thị
gắt gao về cách ăn mặc quần
áo theo lối cực kỳ bảo thủ.
Trong vòng vài năm sau đó mức
độ tường thuật của báo
chí nói chung thường ở mức
độ thấp, trong đó bao gồm nhiều
tài liệu đánh giá ảnh hưởng
của Taliban. Chuyện chiếm Kabul và sự
treo cổ tức khắc Najibullah và người
em của ông ta đã tạo nên một
hình ảnh mạnh mẽ và gây cảm
xúc lớn mà báo chí thiếu
tường thuật. Nhiều bài tường
thuật nói chung là tiêu cực, nhưng
có vài phóng viên nói đến
sự hợp lòng dân của phe Taliban
ở những tỉnh phía Nam và
sự vui vẻ lúc đầu của dân
chúng Kabul khi nghĩ đến những
ngày pháo kích và vây kín
sẽ cuối cùng qua đi.
Ðứng trước
sự thông tin sâu rộng mạnh mẽ
về chuyện cấm ngay tức khắc
vấn đề cấm phụ nữ học
hành và làm việc cùng những
khó khăn mà những văn phòng
thiện nguyện phải đối phó do
những luật lệ cấm đoán
đàn bà nói trên gây ra, văn
phòng Liên Hiệp Quốc cảm thấy
họ cần phải đưa ra một lời
tuyên bố. Cùng với quốc hội
Aâu châu, cơ quan nhân quyền Liên
Hiệp Quốc được yêu cầu
phải họp để bàn thảo về
vấn đề này, và sau đó
lên án những chính sách phân
biệt giới tính của Taliban như là
những sự vi phạm nhân quyền.
Vào ngày 3 tháng
10 năm 1996, Bà Emma Bonino, Ủûy viên
Hội Ðồng Aâu Châu về những
vấn đề nhân quyền, nói trong
một cuộc phỏng vấn rằng những
quyền của phụ nữ phải được
tôn trọng ở A phú hãn trước
khi có sự công nhận của quốc
tế đối với chính phủ
mới của Taliban ở Kabul. Ngày
hôm sau, ủy viên nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc là José Ayala-Lasso
nói trong một bản lên tiếng soạn
sẵn rằng ông đã khẩn thiết
yêu cầu đại diện của ông
ở Kabul hãy cấp tốc nói cho
phe Taliban biết sự lo ngại của ông
về tình trạng nhân quyền ở
A phú hãn. Ông kêu gọi phe Taliban
hãy, " bảo đảm sự tôn trọng
cho những quyền ấy như quyền
làm việc và học hành của phụ
nữ ", và nhắc đến chuyện
A phú hãn đã từng ký
nhiều hiệp định bảo vệ những
quyền của phụ nữ.
Vào ngày 8 tháng
Mười , Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc đưa ra lời kêu gọi
trong đó ông nói rằng tất
cả những sự giúp đỡ
của Liên Hiệp Quốc phải được
tuân theo những quy định của Liên
Hiệp Quốc xác định quyền bình
đẳng của đàn ông và
đàn bà. Cùng ngày hôm đó
Hoa Kỳ cảnh cáo chính phủ Taliban
là Hoa Kỳ sẽ không bảo đảm
sự công nhận của quốc tế
và viện trợ trừ phi A phú
hãn tôn trọng những quyền căn
bản của phụ nữ.
Vào ngày 9 tháng
Mười, giám đốc chương
trình UNICEF là bà Carol Bellany, thông báo
là cơ quan UNICEF ngưng lại sự trợ
giúp cho những chương trình giáo
dục ở Kabul, và thêm rằng những
chương trình này sẽ được
tái tục lại chỉ khi nào pha Taliban công
nhận chuyện phụ nữ có quyền
đi học. Sự ngưng trệ này là
một phần của quyết định để
phản ứng lại chuyện cấm giáo
dục phụ nữ khi phe Taliban chiếm Herat
vào tháng Chín 1995.
Vào ngày 17 tháng
Mười, Hội Ðồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc đưa ra một nghị quyết
trong đó bày tỏ sự quan tâm
mà hội đồng gọi là sự
kỳ thị khắc nghiệt đối với
phụ nữ và thúc giục sự
tôn trọng nghiêm chỉnh những điều
khoản luật nhân quyền quốc tế.
Hội đồng cũng kêu gọi sự
ngưng bắn ngay tức khắc ở
A phú hãn và kêu gọi mọi đảng
phái A phú hãn nên bắt đầu
một cuộc đối thoại với Liên
Hiệp Quốc. Sau đó Hội Ðồng
còn kêu gọi thêm chuyện những
thế lực bên ngoài nên chấm
dứt chuyện can thiệp vào A phú
hãn và ngưng ngay chuyện chuyển vũ
khí vào nước này.
Vào ngày 24 tháng
Mười, Quốc Hội Âu Châu bảo
trợ một nghị quyết trong đó
kêu gọi tất cả những quốc
gia chống lại chính phủ Taliban ở
Kabul vì những gì gọi là sự
kỳ thị có hệ thống đối
với phụ nữ A phú hãn,
chuyện vi phạm nhân quyền đầy
rẫy và chuyện cưỡng bức
người dân A phú hãn theo đạo
Hồi. Quốc Hội Âu Châu nêu rõ
là sự đàn áp phụ nữ
đi ngược lại với Hiệp
Ðịnh quốc tế năm 1979 ngăên
cấm tất cả những hình thức
kỳ thị phụ nữ và Hiệp Ước
năm 1966 về những quyền lợi
xã hội và kinh tế. Quốc Hội
nói rõ là không có quốc
gia hội viên nào nên có quan hệ
ngoại giao với phe Taliban và bày tỏ
sự kinh hoàng trước cái chết
của Tổng thống Najibullah. Quốc Hội
đề nghị cấm vận tất cả
những vũ khí cung cấp cho A phú
hãn và ngưng trợ giúp bất
cứ viện trợ mới nào
ngoại trừ trường hợp
phải giúp đỡ khẩn cấp.
Tuy nhiên, phe Taliban dù
ý thức được những
Hiệp Ðịnh Nhân Quyền của Liên
Hiệp Quốc và sự quan trọng của
chúng như là một cung cách cư xử
quốc tế, họ vẫn không cho chuyện
áp dụng những luật quốc tế
này quan trọng hơn là sự diễn
dịch kinh Qur’an và ứng dụng luật
Shari’a của Hồi giáo. Họ coi những
sự lên án chính sách của
họ như là những sự tấn
công từ Tây phương, căn cứ
trên ý thức hệ cấp tiến
Tây phương, hơn là sựdien tả
một quan điểm quốc tế được
mọi người công nhận. Liên
Hiệp Quốc và Cộng Ðồng Quốc
Tế thường được coi như
đồng nghĩa với Tây phương.
Phe Taliban vạch rõ
sự phân biệt rõ ràng những
gì họ gọi là quốc tế và
những hệ thống giá trị quốc
gia. Một số người có thể
rút ra những kết luận tức
thời về những gì họ hiểu,
nhưng nếu cứ rán định nghĩa
sự khác biệt nếu có thì
sẽ tạo ra sự nguy hiểm không thể
tránh là người đó đã
khái quát vụng về và sai lạc.
Tuy nhiên trước viễn cảnh xấu
xa là bị quốc tế tẩy chay nên
phe Taliban cũng tạm thời chấp nhận
những sự khác biệt có thể
có, nếu chỉ dùng để dàn
xếp một cuộc đối thoại phức
tạp và rộng lớn.
Hệ thống giá
trị Tây phương đánh giá
cao vấn đề dân chủ và tự
do cá nhân. Tự do cá nhân được
hiểu là tự do tìm kiếm sự
đầy đủ cho mình và quyết
định quan điểm và nhận thức
của chính mình- vắn tắt là
cho phép bày tỏ những gì riêng
tư, sắc thái đặc biệt của
cá nhân. Ðiều đó ngược
lại với những chế độ
toàn trị trong đó nhà nước
tìm cách áp đặt một ý
thức hệ nào đó và kiểm
soát cá nhân sống đời
sống riêng như thế nào.
Trong hệ thống giá
trị Hồi giáo, cũng không có
sự đề cao và nhấn mạnh
đến tự do cá nhân. Cá
nhân được coi như hòa nhập
vào xã hội. Họ sẽ được
nhận diện với gia đình, bộ
tộc, nhóm chủng tộc, nhóm tôn
giáo hay đảng chính trị và
sẽ thường tuân theo những
quy tắc của những nhóm đó
hơn là tôn trọng sự thỏa mãn
cá nhân. Năng lực thường
được đổ vào cố gắng
tập thể để cải tiến xã
hội hơn là nỗ lực cá nhân
để theo đuổi mục đích cá
nhân. Dĩ nhiên có nhiều ngoại
lệ nhưng nói chung, có sự nhấn
mạnh đến xã hội trong thế giới
Hồi giáo hơn là ở Tây
phương.
Cho nên khi Tây phương
đặt vấn đề quan tâm đến
chuyện đàn bà không được
đi làm việc, phe Taliban ngạc nhiên khi
thấy có sự quan tâm nhiều đến
những chuyện như vậy, họ cho chuyện
này không đáng kể vì có
một số đàn bà làm việc
trong những văn phòng. Mặt khác,
họ cảm thấy bất bình vì phương
Tây không công nhận những chuyện
mà họ coi là những thành quả
vĩ đại : sự mang lại hòa bình,
luật lệ và trật tự về cho
A phú hãn. Tương tự như thế,
trong khi Tây phương nhìn một cách
tiêu cực về chuyện áp đặt
một tín ngưỡng đặc biệt
lên dân chúng, đó là sự
áp đặt làm người ta nhớ
lại những chế độ toàn trị
mà chính phe Taliban ghê tởm, phe Taliban
vẫn giữ niềm tin rằng họ đang
cải tiến xã hội bằng cách
áp dụng những luật lệ đạo
đức thích hợp.
Tuy nhiên, đây
không phải là trường hợp
của hai phe đồng đẳng cố gắng
hiểu những vị thế của nhau. Có
sự quan hệ bất bình đẳng
giữa Tây phương và thế giới
Hồi giáo căn cứ trên sức
mạnh kinh tế và chính trị của
phe trước. Ðiều này làm
cho Tây phương nghĩ thế giới
Hồi giáo với một mức độ
nào đó về sự kiêu căng
văn hóa và một quan điểm thật
nghiêm khắc, phối hợp với
những cảm giác lo sợ nào
đó đối với Hồi giáo
kể từ ngày Hồi giáo có
những việc làm tiêu cực cao
độ.
Thế giới
Hồi giáo cảm thấy cay đắng
về sức mạnh của Tây phương
có thể có và lo ngại về cái
ảnh hưởng lan rộng của nền
văn hóa Tây phương và về
sự xoi mòn cùng sự phá hoại
của những nền văn hóa địa
phương bởi nó. Có những
quốc gia như Iran đã thi hành những
biện pháp như cấm những dĩa
vệ tinh trong một cố gắng tuyệt vọng
nhằm ngăn cản những chương
trình truyền hình Hoa Kỳ truyền đến
khán thính giả người Iran. Phe
Taliban còn đi xa hơn một bước
nữa là cấm luôn truyền hình,
dù họ đã nhân danh Hồi giáo
để cấm đoán những biểu
tượng con người cho hợp
tình hợp lý.
Khi Liên Hiệp Quốc
lên tiếng trên căn bản Hiệp Ước
Nhân Quyền, phe Taliban hoài nghi về chuyện
đó. Họ lý luận cho rằng Liên
Hiệp Quốc đã chịu phần nào
ảnh hưởng của Mỹ, và kết
luận những Hiệp Ước Nhân
Quyền chịu ảnh hưởng nặng
nề của giá trị Tây phương.
Ðừng nghĩ rằng đây chỉ
là quan niệm của phe Taliban. Sự đe
dọa đến văn hóa A phú hãn,
cho dù bởi những giá trị
Tây phương hay bởi giá trị
của chủ nghĩa xã hội, được
dân chúng thấy rõ, và nhiều
người A phú hãn muốn coi chuyện
duy trì nền văn hóa là ưu tiên
cao nhất.
Có điều
ngạc nhiên là những nền văn
hóa địa phương đã sống
còn tốt đẹp ở A phú hãn,
dù gặp phải những sự thay
đổi đọt ngột do sự tranh chấp.
Tuy nhiên, có những ảnh hưởng
khác cũng tiến vào một cách
không tránh được, đặc
biệt là từ trong dân số tỵ
nạn ở Pakistan và Iran. Sự thành
công của phong trào Taliaban cũng cho thấy
rằng hiện tượng tôn giáo
hồi sinh thường xuyên trong hoàn
cảnh chiến tranh hay biến động xã
hội, đó là một yếu tố
trong khi xem xét những thay đổi văn
hóa ở A phú hãn. Sự tồn
tại của những phong trào khác
– như phong trào kháng chiến Mujahidin – trước
phe Taliban, vốn là phe tái diễn dịch
sự ưu thế của văn hóa và
tôn giáo, đã cộng thêm với
sự rối loạn và bất an về
văn hóa sinh ra bởi chiến tranh và
làm cho mọi người sẵn sàng
đi theo phong trào mới tạo ra được
sự chắc chắn trong một hình thể
tuyệt đối. Sự say mê của
những người trẻ trong phong trào
Taliban cũng là điều gây nhiều
sự ngạc nhiên.
Ðể tránh
lập thêm những sự khái quát,
điều ích lợi trong sự thảo
luận về cái chung giữa phe Taliban và
cộng đồng quốc tế để
xem xét thêm một vài giá trị
rõ ràng được dân chúng
A phú hãn gìn giữ.
Bên ngoài đồng
quê, giáo dục được coi là
một chuyện quan trọng lớn lao như
là một phương tiện để thoát
khỏi vòng vây của nghèo khó.
Chắc chắn là ở những
khu vực thành thị và cộng đồng
tỵ nạn, mỗi gia đình coi chuyện
giáo dục là ưu tiên hàng đầu.
Dù gia đình có nghèo như thế
nào thì cũng phải cố gắng
tìm cách trả tiến học cho con cái
của họ. Nếu nguồn lợi gia đình
quá khiêm tốn thì vẫn phải
nỗ lực để giáo dục cho con
trai hơn là con gái, nhưng sự giáo
dục dành cho con gái cũng được
coi là quan trọng. Như đã nói
ở trên, đối với nhiều
gia đình tỵ nạn ở Pakistan và
Iran, sự ngăn cấm trẻ gái đi
học của phe Taliban là một yếu tố
rõ ràng trong quyết định họ
trở về A phú hãn hay không.
Ðó cũng là điều càng
không thể tránh đối với
trường hợp những gia đình
từ khu vực thành thị.
Những quyền
làm người khác mà đa
số người A phú hãn coi ưu
tiên bao gồm những quyền được
hòa bình và yên ổn, quyền
được sống một cuộc sống
tiêu chuển thích hợp, quyền được
có một sức khỏe tốt và
quyền an toàn cá nhân. Những
quyền sau bao gồm quyền không bị
cướp, bị xâm phạm tiết hạnh
hay đụng chạm thân thể. Liên hệ
đến quyền đặc biệt này
thì thật khó để xem xét đến
những chính sách và sự ứng
dụng của phe Taliban. Nói đến mặt
tích cực thì họ có cải tiến
luật lệ làm cho mọi người
ít còn là nạn nhân của sự
cướp bóc, cho dù là ở
trong nhà hay đi ra ngoài, cho dù có
nhiều dấu hiệu mới đây
cho thấy là tình trạng luật lệ
ở những thành phố do phe Taliban
nắm giữ đang tới hồi
tệ hại. Thêm vào đó, phe Taliban
không chủ trương hiếp dâm và
hôi của hay đày đọa thân
xác đàn bà trong khi đánh
nhau. Về chuyện này thì thành tích
của họ khá hơn những thành
phần khác ở A phú hãn. Tuy
nhiên phe Taliban đã tạo ra một không
khí hoảng sợ ở Kabul và
Herat bằng cách ban hành luật lệ ăn
mặc rất khắt khe và đôi khi
đánh đập những người
đàn ông và đàn bà
không tuân theo. Sự tàn bào gây
ra bởi chuyện vô chính phủ được
thay thế bằng bạo lực được
tôn giáo cho phép.
Chuyện phụ nữ
bị kỳ thị trong vấn đề chăm
sóc sức khỏe và những
dịch vụ về giáo dục là chuyện
không còn nghi ngờ gì nữa.
Những cuộc thảo luận giữa
phe Taliban và những cơ quan quốc tế
trong mùa hè 1997 về chuyện có cho
phép đàn bà chăm sóc sức
khỏe ở một bệnh viện duy nhất
hay không, đó là bệnh viện được
dành riêng cho đàn bà, điều
đó không liên hệ đến
nguyên tắc có cho phép đàn
bà được khám bệnh hay không,
vì chuyện này đã được
Taliban cho phép, nhưng còn đến cái
viễn cảnh có nhiều nguồn tài
trợ đến những cơ quan y tế
nhỏ hơn. Có điều đáng
mừng là một ủy ban y tế được
thành lập, bao gồm những đại
biểu từ Bộ y tế công cộng,
Bộ Ngoại giao, Văn Phòng đề cao
đức hạnh và phòng ngừa
tội ác, các tổ chức WHO, UNICEF,
ICRC, và NGO, để đẩy mạnh thêm
chuyện đối thoại và làm cho
vấn để hoạch định săn
sóc sức khỏe trong tương lai được
dễ dàng. Mục đích được
nhắm tới là làm sao bảo đảm
cho đàn ông và đàn bà
được nhận sự săn sóc
y tế một cách bình đẳng. Mục
đích đó giờ đây
đã phần nào thành sự
thật.
Trong khi người
ta có thể vạch ra một sự phân
biệt rõ ràng giữa phe Taliban và
những phe khác trong sự đối
xử với dân chúng nói chung,
có vấn đề là rất khó
so sánh những bạo lực do nhà
nước dung dưỡng bị phe Taliban
lèo lái để đối xử
với kẻ thù trong giai đoạn Liên
xô xâm lăng hay giai đoạn chính
phủ kháng chiến Mujahidin cầm quyền.
Phe Taliban coi chuyện bắt bớ là hợp
tình hợp lý vì những kẻ
bị bắt đã có hành động
nổi loạn, hay nói cách khác là
đã có những hành động
đi ngược lại nhà nước
Hồi giáo.
Như đã nói
ở trên, một câu hỏi khó
khăn nữa đặt ra về vấn
đề nhân quyền trong khi liên hệ
tới Taliban là có phải họ đã
đi quá xa hơn những chính phủ
Hồi giáo khác trong khi ban hành một
hệ thống phân biệt đối xử
hợp pháp, mặc dù chính sách
này căn cứ trên giới tính
hơn là chủng tộc. Có những
chính phủ khác như Sudan, Iran, Saudi Arabia
và Pakistan, đã ra những luật
cho rằng đàn ông và đàn
bà phải được tách riêng
ra. Tuy nhiên họ thay đổi mức độ
mức độ ứng dụng sự
yêu cầu và cũng theo thời
gian thì chuyện bắt buộc cũng thư
giãn dần đi. Trong ba nước trên,
chỉ có Saudi Arabia bây giờ là
áp dụng chuyện tách biệt đàn
ông, đàn bà một cách khắt
khe. Nước Pakistan, Iran và Sudan đã
cởi mở sự hạn chế rất
nhiều.
Câu hỏi chủ
yếu bây giờ là ở cộng
đồng quốc tế có thể dựa
vào những tuyên ngôn Liên Hiệp
Quốc ở mức độ nào,
hay theo một cách khác là nhắm vào
những giá trị và quan niệm của
dân cư A phú hãn để tìm
kiếm sự đối thoại với
phe Taliban, và chuyện này sẽ cải
tiến thêm vị trí mà cộng đồng
quốc tế bảo trợ. Do đó
cần có sự xem xét về chuyện
liệu có những nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc có vẻ không hợp
lý để thi hành dưới hoàn
cảnh hiện nay của A phú hãn. Có
người có quan điểm rằng
một xã hội đã trải qua nhiều
đau thương, rối loạn dưới
bàn tay của những siêu cường
phải được tự do để
tái lập trật tự bằng cách
tái diễn dịch những truyền
thống vững vàng xa xưa, để
rồi sau đó mới vươn ra
để tiến tới những tiêu
chuẩn quốc tế. Tuy nhiên nhiều quan
sát viên Tây phương cho rằng chuyện
này có vẻ hứa hẹn cù
nhày với những tiêu chuẩn
quốc tế đã được
mọi nước công nhận, đặc
biệt khi phụ nữ ở Kabul đang
chịu ảnh hưởng tai hại bởi
những hạn chế khắt khe của phe
Taliban.
Ðây là một
câu hỏi khó mà cộng đồng
quốc tế có hay không có hỏi
bản thân mình trước khi đòi
hỏi phe Taliban. Chủ yếu là Hoa Kỳ
và Âu Châu đã xem xét nghiêm
khắc về chuyện có nên công
nhận phe Taliban như là một chính phủ
hợp pháp của A phú hãn. Thật
là dễ dàng khi có những chính
quyền lấy căn bản văn hóa
của họ để phê phán chính
sách và hành động của Taliban
là không thể chấp nhận được
và coi sự công nhận quốc tế
dành cho Taliban là chuyện không thích
hợp. Chuyện khó ở đây
là phải hiểu tại sao phe Taliban bị
chỉa nhiều mũi dùi tra vấn trong
khi có những chế độ khác
vi phạm nhân quyền trầm trọng, lại
vẫn được quốc tế công
nhận.
Vào ngày 8 tháng
5 năm 1997, Ðài phát thanh Shri’a của
phe Taliban dẵ nhận định về vấn
đề này như sau;
Có hàng chục
và ngay cả hàng trăm nhà nước
trên thế giới không tuân theo
những tiêu chuẩn nhân quyền được
người Tây phương theo tí nào
cả. Nhiều trường hợp xử
tử, tù đày, và vi phạm
nhân quyền có thể nhìn thấy
ở những quốc gia đó. Không
có sự lên án mạnh mẽ nào
về những quốc gia đó mà
những quốc gia thường được
mệnh danh là ủng hộ nhân quyền
lại đi ủng hộ những quốc
gia đó bằng nhiều cách khác
nhau.
Có điều
cần phải bàn luận ở đây
là có những quốc gia như Hoa
Kỳ có thể bỏ qua chuyện vi phạm
nhân quyền của những nước
mà họ công nhận chỉ vì những
quốc gia đó đang có những
hành động phù hợp với
quyền lợi của Mỹ. Chính quyền
Nam Dương là một thí dụ điển
hình. Người chống lại quan điểm
này có thể nói là Hoa Kỳ
có nhiều tiềm năng nguồn lợi
trong chuyện phát triển dầu và ống
gas chạy sang A phú hãn và mong muốn
giảm bớt số lượng thuốc
phiện trồng và ngăn ngừa sự
huấn luyện khủng bố ở đây.
Tuy nhiên giá dầu ở vùng Trung
Á tương đối quá cao, chuyện
giảm bớt thuốc phiện ở
A phú hãn có thể chẳng đi
đến đâu vì những vùng
trồng thuốc phiện khác trên thế
giới gia tăng sản xuất và hoa
Kỳ có thể có nhiều chiến
thuật khác để đối phó
với chuyện huấn luyện khủng bố
ở A phú hãn. Cho nên những
quyền lợi đó không được
coi nặng như chuyện giới tính ở
Mỹ và triển vọng bị mất phiếu
nếu Mỹ tiến tới chuyện công
nhận một chế độ hạn chế
khắt khe quyền của người đàn
bà.
Những cuộc tranh
cãi tương tự cũng xảy ra cho
Liên Hiệp Âu Châu. Vấn đề
vi phạm nhân quyền tuy là chuyện hiển
nhiên – nhưng nó khác với những
vấn đề như tra tấn tù nhân,
vốn là vấn đề chính trong
chuyện công nhận của quốc tế.
Phe Taliban coi chuyện vi phạm nhân quyền là
một chuyện hợp lý trên căn
bản của những luật lệ tôn
giáo khác nhau,, và rõ ràng là
có khoảng cách giữa điều
luật tôn giáo và hệ thống giá
trị Tây phương, điều này
đã làm cho Hoa Kỳ và Liên
Hiệp Âu Châu cảm thấy là họ
phải giữ vững lập trường.
Ðể đối lại, phe Taliban tố cáo
Tây phương tìm cách áp đặt
những giá trị riêng của họ
và tiến tới chuyện phân cực
tình bằng hữu. Lịch sử đau
thương của mối liên hệ giữa
thế giới Hồi giáo và Tây
phương, bao gồm chuyện căng thẳng
ngày càng gia tăng giữa những
phong trào Hồi giáo ở những
thành phố ở Âu châu – đặc
biệt là ở Pháp- với dân
cư của họ, rồi dẫn đến
chuyện hai phía lao tâm khổ trí nghĩ
đến chuyện họ có nên thỏa
hiệp với nhau hay không và nếu
có thì họ phải đặt những
điều kiện gì trước đã.
Sự hiện diện của những văn
phòng thiện nguyện và sự thương
thảo mệt mỏi của họ với
phe Taliban đã làm cho vấn đề
càng trở nên phức tạp, rồi
lại có thêm những thế lực
địa phương dính dáng vào
vì quyền lợi của riêng họ.
Nói chung Bin Laden và
Omar đã có những luật lệ
khắt khe để trói buộc người
đàn bà. Có điều cũng
xin kể ra ở đây là Omar lấy
con gái Bin Laden và Bin Laden lấy con gái
Omar. Có nghĩa là Bin Laden là cha vợ
của Omar và Omar cũng là cha vợ
của Bin Laden. Quan hệ kỳ cục này bị
một số nền văn hóa trên thế
giới đánh giá là loạn
luân, nhưng Bin Laden và Omar vẫn nghĩ
chuyện họ làm là đúng và
tiếp tục khống chế người
phụ nữ A phú hãn bằng những
luật lệ ngu xuẩn, phản tiến hóa
và vô đạo đức. Giờ
đây Bin Laden và Omar không còn cầm
quyền A phú hãn và như thế
là người phụ nữ A phú
hãn đã có một cơ hội để
tiến lên làm người với
đầy đủ nhân phẩm. Cộng
đồng thế giới đã tẩy
chay chế độ khắt khe của Taliban và
nhân dân A phú hãn nói chung và
phụ nữ A phú hãn nói riêng
cũng đẩy lùi chế độ
vô nhân và ngu xuẩn này vào
đống tro tàn của lịch sử
hầu mở ra một con đường
tươi sáng để đi đến
tương lai.
Lawndale, đêm giao
thừa lạnh lẽo, cô quạnh xuân
Nhâm Ngọ 2002
Trần Viết
Ðại Hưng
|