THỰC
CHẤT ÐẤT NƯỚC A PHÚ HÃN
Trong một quốc
gia như A phú hãn, nơi mà ý
niệm quốc gia được hình thành
mới đây, đất nước
được coi như cái gì đó
nằm bên ngoài xã hội và nơi
lòng trung thành phục vụ của dân
chúng chủ yếu hướng về
cộng đồng địa phương, điều
duy nhất mà dân A phú hãn chia sẻ
chung là đạo Hồi.
A phú hãn có
thể phân loại về mặt địa
lý như là một vùng sa mạc có
núi non, rải rác khắp nơi có
những thung lũng màu mỡ cách
biệt, những lưu vực sông và
những ốc đảo. Nó trải
dài về phía Ðông từ những
bình nguyên Ba-tư bao la và sáp nhập
vào những chân núi của rặng
Hy-mã-lạp-sơn, nó lên tới
độ cao 7470 m để chia cắt Tajikistan
từ Pakistan và vươn tới phía
Bắc Trung Hoa. Về phía Bắc của rặng
này, được biết đến
với cái tên Hindu Kush, là điểm
bắt đầu của những bình
nguyên chạy qua biên giới A phú
hãn ở con sông Amu Darya và kéo
dài ra hàng ngàn dặm dọc theo vùng
Trung Á và từ những thảo
nguyên của Nga đến Bắc cực.
Về phía Nam của rặng Hindu Kush là
vùng sa mạc lạnh lẻo, hoang vắng có
gió thổi nhiều, vùng sa mạc này
chạy qua Pakistan tới Ấn độ dương.
Những bằng chứng khảo cổ
cho thấy rằng người trong vùng
này trồng lúa mì và lúa
mạch cùng nuôi cừu và dê
trên đồng cỏ ở những
chân núi của dãy Hindu Kush vào khoảng
9000 cho đến 10000 năm trước đây.
Nó cũng nói lên chuyện có
thể có một nền văn hóa du mục
nằm trên vùng đất rộng hơn
về phía Tây và Bắc.
Nền kinh tế phần
lớn dựa vào nền canh nông
nuôi sống dân, với lúa mì
được trồng tỉa bằng cách
tưới bón là vụ mùa chính.
Còn lúa mì và lúa mạch dùng
nước mưa để tưới
được trồng trên những
vùng đất khó trồng trọt. Cuộc
chiến tranh đã dẫn đến sự
bỏ quên hay phá hoại nhiều công
trình thủy lợi dẫn thủy nhập
điền mà nền kinh tế nông
nghiệp tùy thuộc vào và một số
lớn sự giúp đỡ trong
những năm gần đây đều
nhắm vào chuyện sửa chữa
nói trên. Cho nên những năm sau
khi quân Liên Xô rút quân đã
chứng kiến chuyện tái lập hữu
hiệu nền kinh tế căn bản, và
mọi người trở lại những
làng thôn của họ sau khi đi lưu
đày ngoài hay trong nước. Tiến
trình tái xây dựng đã được
hỗ trợ bởi nhiều nguồn
tài trợ và những kỹ thuật
chuyên môn được cung cấp
bởi những cơ quan thiện nguyện.
Nền kinh tế ở thôn quê cũng
đã chứng tỏ sự tiến
bộ, ít nhất là ở miền
Nam và Tây của đất nước,
nhưng phần lớn miền Bắc đã
lộ rõ tình hình ngày càng tệ
hại.
Vài vùng tương
đối tốt đẹp hơn những
vùng khác. Chẳng hạn như vùng
chung quanh Jalalabad, có thể sản xuất nhiều
loại trái cây và rau. Thêm vào
đó, vùng đất này cũng
được biết đến về
sản phẩm nha phiến. Vùng Helmand là
một vùng trồng nha phiến chính khác,
cung cấp một phần tư nhu cầu sản
lượng nha phiến toàn thế giới.
Jalalabad cũng là một nơi nổi bật
với con đường đổi
chác chính và hoạt động như
là một trung tâm của mạng lưới
buôn lậu ma túy được tổ
chức rất kỹ lưỡng. Ngược
lại, những thung lũng bên sông
của vùng trung tâm và Ðông
Bắc A phú hãn, dọc chiều dài
của dãy Hindu Kush, người dân
khó khăn lắm mới sống nổi
và có một lịch sử về chuyện
chết đói, có nhiều trận đói
xảy ra với mức độ nghiêm
trọng.
Chiến tranh đã
tạo ra sự tăng trưởng quá
mức của vùng trung tâm đô
thị A phú hãn khi phần lớn
dân số bị bắt buộc phải dọn
đến định cư ở những
thành phố và đô thị với
cố gắng sẽ sống còn về
mặt kinh tế. Những sự trợ
cấp được cung ứng bởi
Liên Xô giữ cho nền kinh tế
đô thị tương đối sống
còn một cách tương đối
cho đến năm 1992, nhưng rồi tình
hình ngày càng đi xuống đều
đều. Có một phương thức
mà nhiều gia đình làm là
dần dần bán đi những tài
sản của họ qua năm tháng và
nhiều gia đình khác đang đối
diện với cảnh khốn cùng. Nền
kinh tế thành thị luôn tùy thuộc
nhiều vào những hàng quán
nhỏ và chuyện đổi chác trên
đường phố, cả hai điều
này đều dễ dẫn đến
sự bất ổn hay sợ bị bắt.
Dân chúng A phú
hãn là sắc dân có sự
hỗn hợp giữa tôn giáo và
ngôn ngữ. Nhóm sắc dân chủ
yếu Pushtuns cư trú khắp vùng miền
Nam theo hình vòng cung bao quanh vùng Hazara ở
vùng trung tâm A phú hãn. Có nhiều
dân Pushtuns ở bên phía Pakistan nằm
bên kia biên giới, nằm trong tỉnh
Tây-Bắc ở biên giới, nằm
bên phía A phú hãn. Dân Pushtuns có
một ngôn ngữ rõ rệt là
Pashto, vốn có sự khác biệt rõ
ràng từ tiếng Dari, một thổ ngữ
của tiếng Ba-tư được nói
ở những phần đất khác
trong nước.
Ở phía Bắc
của đất nước có ba nhóm
sắc dân chính, vốn nối với
những người khác có chung
liên hệ chủng tộc ở Trung Á.
Số dân ít người thuộc sắc
dân Thổ ở tỉnh Badghis do đó
cũng có liên hệ tới dân
Turkmenistan, thuộc sắc dân Uzbek đông
hơn ở miền Bắc vùng trung tâm,
chính yếu ở vùng Mazar, cho tới
nước Uzbekistan, và giống dân
Tajiks ở phía Ðông Bắc A phú
hãn kéo dài tới Tajikistan. Nhóm
sắc dân Uzbeks và nhóm Turkomans nguyên
thủy là người Thổ và Thổ
nhĩ kỳ đã tỏ bày thái
độ lưu tâm đến họ mới
đây, đó là những tham
vọng của sắc dân Thổ ở
Trung Á. Còn thêm một sắc dân
nữa là giống người Baluch
được nhận ra ở góc vùng
Tây Bắc của A phú hãn, họ là
một phần của dân số ngày càng
tăng trưởng ở cả hai phía
biên giới Pakistan và Iran.
Phái Si của Hồi
giáo có một niềm tin vững mạnh
nhưng có hai chi nhánh phụ thuộc rõ
ràng: nhóm Hazaras ở vùng trung tâm
A phú hãn,họ có một lịch sử
bị chèn ép về chính trị lẫn
kinh tế, và nhóm Ismailis của vùng
Tây Bắc A phú hãn. 80 % dân số
là những người phái Si
và 20 % là những người
phụ thuộc.
Nền văn hóa
quốc gia khá hỗn hợp. Nhóm
Pushtuns theo hình thái bộ tộc và có
truyền thống cao, với những
lễ nghi rõ ràng dành cho quan hệ
đối đãi trong gia đình và
với những người ngoài
bộ tộc. Hệ thống liên ứng
dùng để quyết định vấn
đề mang tính chất A phú hãn
được đặc biệt công bố
trong những khu vực người Pushtuns.
Hệ thống địa phương, được
biết đến với cái tên
Jirgas, vốn được tìm thấy
trong tinh thần văn hóa Pushtuns đã
đóng một vai trò quan trọng trong chuyện
duy trì cơ cấu, giềng mối xã
hội. Nhóm Shuras, vốn hiện diện ở
những vùng khác trong nước
A phú hãn, thì lại càng lỏng
lẻo nhiều hơn nữa.
Số dân Hazara theo
đạo Si ở vùng trung tâm A phú
hãn cũng có thể coi là nhóm
bảo thủ, nhưng nguyên tắc xã
giao không quá khe khắt như nhóm Pushtun
ở miền Nam.Thêm vào đó
còn có lý do xã hội vẫn còn
khuynh hướng thứ bậc, tôn
ti và theo chủ nghĩa cá nhân. Không
có chuyện gì gọi là bất bình
thường khi đàn bà tự
mình nuôi dưỡng con trong một hệ
thống xã hội mà gia đình đa
số còn sống theo kiểu quây quần
bên nhau chứ không theo kiểu mở
rộng ra. Tương tự như thế , ở
vùng Herat về phía Tây Bắc, dân
số trước chiến tranh được
ghi nhận là rất hay di chuyển khi những
gia đình sống bên nhau di chuyển từ
chỗ này sang chỗ khác để
kiếm việc làm. Ở Mazar, dân chúng
ở vùng này mang tính chất thành
thị nhiều hơn nữa và có
thể coi như có nhiều điểm tương
đồng với những khu vực
sống bên trong thành thị mang nhiều
tính chất Tây phương hơn là
cách sống cổ truyền ở phía
Nam. Tuy nhiên, những khu vực đồng
quê chung quanh nó không hẳn là kém
bảo thủ hơn vùng của người
Pushtuns, dù họ thiếu sự gắn bó
kết hợp thường hiện diện
ở những vùng dân Pushtuns cư
trú. Cho nên chuyện khu vực vỡ
thành từng mảnh là chuyện dễ
dàng hơn là trở thành nhiều
thành phần chống đối nhau trong
sự liên kết có biến đổi.
Thủ đô Kabul
cũng bao lần thay đổi bộ mặt
khi thành phố này theo phong trào hiện
đại hóa, rồi lại theo khuynh hướng
bảo thủ quá độ, nó bị
ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
cấp tiến trong thập niên 1960, theo đuổi
hình thái bên ngoài của chủ
nghĩa xã hội theo kiểu Liên Xô
và chứng kiến tầng lớp
trí thức cấp tiến khá đông
đảo rời đất nước,
đầu tiên là trước sự
lên nắm quyền của Ðảng Dân
chủ Nhân Dân A phú hãn ( PDPA), chính
phủ kháng chiến Mujahidin từ năm
1992- 1996, và mới đây, là
chính phủ Taliban. Dân chúng đổ
nhiều vào thủ đô do hậu quả
của chiến tranh nên thủ đô Kabul
giờ đây có tính chất
thôn dã nhiều hơn là thành
thị.
Thật là khó
mà quyết định người A
phú hãn sống thích hợp hơn
với vùng Trung Á, vùng lục
địa nhỏ Ấn độ hay vùng
Trung Ðông. Nền văn hóa bộ tộc
của dân Pushtuns chứa nhiều điểm
tương đồng của những vùng
trên của bán đảo Ả rập,
rồi đến chế độ cấm
cung mang tính chất xã hội Hồi giáo
của vùng Á châu cũng là bằng
chứng bổ túc thêm. Sự bí
ẩn được giải đáp ổn
thỏa bởi sự va chạm thuộc nhiều
nền văn hóa vàên hóa phụ
nằm ở A phú hãn trong cuộc xung
đột theo sau sự xâm lăng của
Liên Xô. Không ai là không bị
ảnh hưởng bởi sự xung
đột, nhưng có người bị
bi thảm hơn người khác. Hơn
sáu triệu người sống kiếp
lưu vong, đa số đi tới Iran và
Pakistan nhưng cũng có nhiều người
đến Âu châu, Bắc Mỹ và
Ấn độ. Có nhiều dân cư
bị dời chỗ khắp nơi trong nước,
nhiều người phải sống trong những
hang động trong chiến tranh, nhiều người
khác tìm chỗ trú ẩn ở
những thành thị hay ở những
vùng khác trong nước. Kiếp sống
lưu vong làm cho nhiều người có
dịp nhìn thấy nhiều nền văn
hóa khác nhưng đồng thời
nó cũng làm tăng sức đề
kháng của người dân trước
ảnh hưởng của bên ngoài
vào trong nước. Vì thế những
người đàn bà lưu vong còn
bị kiềm chế trong sự di chuyển
nhiều hơn quy tắc trong nước A
phú hãn. Thật là hợp lý
hơn nếu coi A phú hãn là một
nơi có nhiều sự phức tạp
lớn lao vốn tùy thuộc vào tình
trạng thay đổi liên tục thường
xuyên trong suốt lịch sử hơn là
nhìn nó như là bị vướng
trong một khoảng thời gian trật đường
rầy, với đời sống tiếp
tục trôi như nó vẫn xảy ra.
Về phương diện
lịch sử, A phú hãn đã
dính líu không rời ra được
với Iran và vùng Trung Á vì
vị trí đắc địa của nó
nằm trên con đường đổi
chác cổ xưa giữa Aâu châu
và Trung Hoa, với sự thịnh vượng
của lục địa Ấn độ đã
nối với những người
A phú hãn theo từng thời kỳ.
Cho tới bây giờ nước
A phú hãn luôn luôn là cái
gì đó xa cách với những
quốc gia láng giềng, dân số thì
giấu kín trong những thung lũng cách
biệt, họ bảo vệ nền độc lập
của họ một cách mãnh liệt, về
một mức độ nào đó,
tùy thuộc vào sự trao đổi
do thế giới bên ngoài tạo ra.
Ðịa lý của nước A phú
hãn đã làm cho nó trở
nên một trung tâm lý tưởng
cho chuyện buôn lậu, với những
dãy biên giới không thể nào
kiểm tra hữu hiệu được.
Nó có cả phía bên ngoài chào
đón cũng như cản trở, đón
nhận với sự ngọt ngào và
lịch sự theo một luật lệ mến
khách trong lúc cũng dùng chính
luật lệ ấy để giữ khoảng
cách với họ. Trước chiến
tranh, thật là chuyện bình thường
đối với những viên chức
chính phủ khi họ thăm viếng những
vùng quê xa xôi và được
tiếp đón nồng hậu và gần
như bị giữ lại như là khách
để giảm thiểu tối đa những
tin tức mà họ muốn thâu lượm
về chuyện thuế má. Những sự
nghi ngờ thì đầy rẫy và
tin đồn mạnh mẽ vô cùng.
Sự đề
cập đến vùng đất mang tên
A phú hãn ngày này xảy trong những
sách kinh về thần lửa được
lưu lại từ thời vua Cyrus đại
đế (530 trước công nguyên),
vốn là người đề cao thần
lửa trong đế quốc Hy lạp. Vua
David đại đế (550- 486 trước
công nguyên) mở rộng thêm bờ
cõi, và ở thời điểm
cao nhất, kéo dài từ phía Bắc
Phi châu đến con sông Indus và bao
gồm toàn thể vùng ven biển hiện
nay nằm trên nước Pakistan phía
Nam A phú hãn. Những tỉnh thành
chấp nhận trung thành với với
đế quốc Hy Lạp được
thiết lập ở Heart, Balkh, Ghazni và
dọc theo bờ sông Kabul từ Kabul
đến Peshawar. Người ta kể lại
rằng vua Darius gặp nhiều khó khăn
thường xuyên trong việc khống chế
những vương quốc bộ tộc A phú
hãn và phải duy trì những lực
lượng đồn trú mạnh trong
vùng. Dù thế dân tỉnh Balkh đánh
với quân đế quốc Hy lạp
khi Alexander đại đế (356- 23 trước
công nguyên) lật đổ đế
quốc này.
Alexander vào vùng
đất hiện nay là A phú hãn
vào năm 330 trước công nguyên,sau
sự sụp đổ của thủ đô
Persepolis ( nằm gần tỉnh Shiraz hiện nay của
Iran) và sự ám sát vua Darius đệ
tam bởi chính ba thống đốc của
ông. Ðại đế Alexander xây dựng
một thành phố gần Heart và tiếp
tục xây dựng nên những thành
phố khác trên đường tiến
tới của ông, dù gặp sự
kháng cự mãnh liệt của những
cấp lãnh đạo bộ tộc. Ðường
tiến quân đã đưa ông đi
từ miền Nam Heart tới Baluchistan và
rồi từ miền Ðông dọc theo
sông Helmand và Arghandab tới Ghazni. Từ
đây, ông đi về hướng
Bắc với quân đội của ông
tới chỗ hợp lưu của hai con
sông Ghorband và Panjshir, nằm chừng
50 km phía Bắc Kabul ngày nay. Dù trong
thời tiết lạnh giá, quân đội
của ông vượt qua Hindu Kush vào
mùa xuân năm 329. Rồi đoàn
quân tiến nhanh về hướng Bắc
tới con sông Oxus (nay gọi là Amu Darya),
nằm gần tỉnh Kunduz ngày nay, rồi
tấn công vào lực lượng
kháng cự, đẩy họ ra khỏi
căn cứ ở vùng Balkh, vốn
ngày nay vẫn còn tồn tại và
nằm về phía Tây của tỉnh Mazar-i
–Sharif. Rồi quân đội Alexander vượt
qua Oxus và bắt giữ Marcanda (Samarkand).
Hai năm sau, sau những
chiến thắng quân sự đầy
cam go ở Trung Á, lực lượng
còn lại của ông đi về hướng
Nam xuyên qua Bamyan và thung lũng Ghorband tiến
tới hướng Tây để
tới vùng đất hiện nay là
quốc gia Pakistan. Ðụng độ với
quân kháng chiến, ông bắt buộc
phải từ bỏ những tham vọng
bành trướng lãnh thổ và
mất một thời gian dài mới
ø dẫn quân rút về được
Babylon, ông qua đời ở đây
vào năm 323 trước công nguyên,
để lại đế quốc vỡ
vụn của ông cho đám thực
dân Hy lạp, và nhóm thực dân
này còn cầm quyền, dưới
hình thức này hay hình thức
khác, trong hơn hai thế kỷ nữa.
Thế kỷ thứ
nhất và thứ hai đầu công
nguyên đã chứng kiến sự
phát triển của con đường
lụa nổi tiếng (the famous Silk Route) nằm
giữa đế quốc La mã và
Trung hoa. Tỉnh Balkh là một điểm quan
trọng trên đường này và
có một con đường thứ
hai băng qua Bamyan, Bagram và từ Jalalabad
đến Aán độ. Trung hoa xuất cảng
lụa và Ấn độ cung cấp vải
bông sợi, gia vị, ngà voi và
đá quý. Vùng Trung Á, bao gồm
A phú hãn, xuất cảng đá quý
Ruby, ngọc chạm trổ, bạc và ngọc
lam. Triều đại Kushan đã tạo
ra được sự ổn định
cần thiết, triều đại này bắt
nguồn từ những người
du mục ở Trung Á và cai trị từ
vùng thung lũng Indus phía dưới
tới biên giới Iran và từ
vùng Sinkiang của Trung Hoa đến vùng
biển Caspian và vùng biển nước
mặn phía Tây Nam Nga sô. Tuy nhiên sự
ổn định này biến mất sau khi
vương quốc Kushan bị bắt bởi
triều đại Ba-tư thờ thần
lửa được biết đến
với cái tên Sasanians, cầm quyền
từ năm 224 đến 651 sau công nguyên
trên một vùng đất mà ngày
nay là các nước Iraq, Iran, A phú
hãn và vùng miền Nam Trung Á.
Triều đại
Sasanian nắm giữ vương quốc Kushan
nhưng chưa bao giờ tỏ ra mình mạnh
mẽ và có những nguyên tắc
chính là nó vỡ ra, cuối cùng
nó bị nhóm Hephthalite Huns khống chế
dễ dàng, nhóm này xâm lăng
từ vùng Trung Á trong khoảng cuối
thế kỷ thứ 5. Ðế quốc
Hephthalite trải dài từ vùng Sinkiang
của Trung Hoa đến Iran và từ
vùng Trung Á đến Punjab nhưng nó
cũng không duy trì được sức
mạnh. Rồi cũng tới lúc nó
bị nhóm Sasanian và nhóm người
Thổ vùng Bắc đè bẹp vào
giữa thế kỷ thứ sáu. Chư
hầu của chúng bị mất quyền
lực vào tay những tên xâm
lược Ả rập, những tên
này mang theo thông điệp của đạo
Hồi di khắp nơi vào đầu thế
kỷ thứ bảy, và đến Kandahar
vào những năm 699- 700 tây lịch.
Tuy nhiên, lãnh thổ A phú hãn lại
bị phân chia một lần nữa, với
triều đại Hindu Shahi đóng đô
ở Kabul nắm kiểm soát phần
lớn miền Ðông A phú hãn,
trong khi chư hầu của Ummayad Caliphs đóng
ở Damascus, cho đến thế kỷ thứ
10 và 11 tây lịch.
Một sức mạnh
mới tiến vào A phú hãn vào
cuối thế kỷ thứ 10, sức
mạnh này là của người Thổ
từ miền Bắc. Họ thiết lập
triều đại Ghaznavid, vốn trị vì
từ năm 977 đến 1186, dần dần
chinh phục vùng Tây Bắc Ấn độ
và vùng Punjab cùng một phần lớn
đất Iran, bao gồm vùng Isfahan. Thời
đại Ghaznavid chứng kiến rõ ràng
một số đông người Hindu
ở Tây Bắc Ấn độ đổi
đạo sang Hồi giáo. Thủ đô
của vương quốc này là Ghazni,
là trung tâm của giới trí thức
và nghệ thuật tuyệt vời. Vương
quốc này suy sụp dần sau cái chết
của cột trụ chính của triều đại
là Yamin Mahmud vào năm 1030.
Tuy nhiên chính Thành
Cát Tư Hãn (Genghis Khan, 1162- 1227) là người
không những phá hủy những
yếu tố của nền văn minh này
mà còn nhiều nền văn minh khác
trong những vùng khác rộng lớn
hơn thông qua một cơn lốc tàn
phá tàn bạo, khởi đầu
từ quê hương Mông cổ của
ông và lan dần ra về phía Tây
tới phía bờ biển Caspian. Một
lần nữa vùng này lại tan nát
tơi bời sau khi bị quân đội
của Thành Cát Tư Hãn tàn phá.
Một sự kiểm
soát thống nhất đạt được
dưới sự cai trị của Tamerlane
(1336 – 1405), là một người hậu
duệ gốc gác Thổ – Mông cổ, có
vương quốc kéo dài từ Thổ
nhĩ kỳ đến Ấn độ. Những
người kế nghiệp ông nâng
đỡ cho những ngành nghệ
thuật và nhiều công trình cổ
xưa hiện diện ở Samarkand và Heart,
bao gồm ngôi đền ngày thứ
sáu ở Heart, ngôi đền của
Gơhar Shad và những tháp đứng
ở cửa vào thành phố. Vào
thời kỳ Timurid, nghĩa là thời
kỳ trị vì của Tamerlane và những
người kế vị được
biết, kéo dài đến năm 1506.
Cho tới đoạn cuối giai đoạn
này, khi thành phố Heart là thủ
đô của vương quốc này,
thi ca và ngành họa được
thăng tiến dồi dào.
Thừa hưởng
di sản để lại của triều đại
Timurid, người A phú hãn bị phân
chia giữa đế quốc Mông cổ
và Safavid. Người cai trị Mông
cổ đầu tiên là Babar, vốn
là hậu duệ của cả Tamerlane và
Thành Cát Tư Hãn. Khi bị đẩy
ra khỏi thung lũng Fergana ở Trung Á
bởi dân Uzbeks, ông tiến về
phía nam để chiếm Kabul vào năm
1504. Từ đây ông và những
người thừa kế chinh phục
hầu hết Ấn độ cho đến
khi vương quốc này, vốn tạo dựng
những công trình nổi tiếng như
tòa nhà Taj Mahal, bắt đầu tàn
lụi sau cái chết của một vị vua
Mông cổ vĩ đại cuối cùng
năm 1707.
Ðồng thời
với thời gian làm mưa làm
gió của đế quốc Mông cổ,
triều đại Ba-tư Safavid cai trị Ba-tư
và vùng phía Bắc A phú hãn
từ năm 1501 đến 1732. Hai đế
quốc này đánh nhau để giành
lấy sự kiểm soát Kandahar, vốn
ở trong tình trạng dao động giữa
hai bên. Họ còn phải chiến đấu
với phe Uzbeks từ phía Bắc, vốn
là phe bị đẩy ra khỏi Heart bởi
phe Safavids và từ Badakshan bởi phe
Mông cổ. Cuối cùng, vào năm
1648,
phe Mông cổ từ bỏ cố gắng
giữ phía bắc A phú hãn. Họ
còn phải đương đầu với
những cuộc nổi loạn từ những
bộ tộc người Pushtun, vốn tiếp
tục từ năm 1658 đến 1675. Những
cuộc nổi loạn tương tự phải
chạm trán với phe Safavids ở Kandahar
(1711) và Heart (1717).
Vào năm 1719 người
lãnh đạo gốc A phú hãn của
vùng Kandahar là Mir Mahmoud, khai thác sự
yếu kém của đế quốc Safavid
bằng cách tiến vào những thành
phố Ba-tư ở Kerman, Yazd và Isfahan,
và đến năm 1772 thì ông đã
chiếm được. Người bà
con tên Ashraf của ông, lên ngôi năm
1725, đánh bại quân Ottoman năm 1727
và được người lãnh
đạo Ottoman công nhận la vua Shah của
Ba-tư. Tuy nhiên ông tiếp tục công
nhận vua Sultan của Ottoman như là người
lãnh đạo trên danh nghĩa của
thế giới Hồi giáo.
Tuy nhiên triều
đại Safavids dưới sự cầm
quyền của vua Nadir Shah, có thể phục
hồi được sự kiểm soát
sau khi đánh bại Ashraf về mặt quân
sự năm 1729. Trong cuộc mở rộng
chính yếu này, đặt trọng tâm
ở A phú hãn, cả Mir Mahmoud và
Ashraf đều không thể thiết lập
sự kiểm soát ở nước
A phú hãn ngoài Kandahar, và những
gì kiểm soát được bị
đe dọa thường xuyên. Phe Safavids
tiến tới Herat năm 1732, Kandahar năm
1738 và Lahore cùng Delhi năm 1739. Ðể
đền đáp quà cáp rộng
rãi , người lãnh đạo Safavid
là Nadir Shah, cho phép người Mông
cổ giữ lại sự kiểm soát
Delhi và trở về phía Tây để
chiếm Samarkand, Bukhara và Khiva ở Trung
Á, để cuối cùng sắp đặt
cho xong ở Mashhad.
Khi Nadir Shah bị ám
sát vài năm sau đó; đây
là lúc một người lãnh
đạo A phú hãn là Ahmed Shah Durrani
lên nắm giữ quyền lực. Từ
lúc được chọn lựa làm
lãnh tụ bộ tộc Abdali năm 1747, ông
di chuyển từ Kandahar để chiếm
lấy Ghazni, Kabul và Peshăar trước
khi tính chuyện chiếm Delhi. Bị sự
kháng cự từ một lực lượng
Mông cổ mạnh hơn, ông phải thối
lui về Kandahar. Năm 1748 ông cố gắng
một lầm nữa và một thỏa
hiệp được đạt tới
trong đó người lãnh đạo
Mông cổ nhường cho ông một
số đất đai nằm ở phía
Tây con sông Indus. Ahmed Shah lúc đó
mới phóng tầm nhìn đến
Heart và Mashhad, và sau khi đạt được
mục tiêu của ông, ông nhắm hướng
Tây Bắc để tính chiếm những
vùng Turkoman, Uxbek, Hazara và Tajik, đó
là vùng đất phía bắc A phú
hãn bây giờ. Rồi kế đến
ông chiếm Kashmir.
Cho đến cuối
đời, Ahmed Shah phải đối diện
với những vấn đề chồng
chất khi ông tranh đấu để giữ
vững những thuộc địa chiếm
hữu. Theo sau những cuộc nổi dậy
của người Sikhs ở Punjab, cuối
cùng ông mất đi sự kiểm
soát vùng này năm 1767. Ở phía
Bắc, ông phải đối phó với
sự đe dọa tới những
thành phố bị chiếm giữ từ
viên thủ lãnh Hồi giáo ở
Bukhara, và những lời đe dọa
này chỉ được rút lại
khi hai bên đồng ý chấp nhận
vùng đất Amu Darya như là vùng
biên giới nằm giữa những
vùng đất kiểm soát của họ.
Ðể biểu hiện cho sự đồng
ý giữa hai bên, viên thủ lãnh
Bukhara trao tặng Ahmed Shah một cái áo choàng
nghe nói đã được bận
bởi Ðấng tiên tri Mohammad, và
Ahmed Shah có một đền thờ xây
dựng ở Kandahar để chứa
quần áo. Hai thế kỷ sau đó
chiếc áo choàng này trước
một đám đông bởi người
lãnh đạo Taliban là Mullah Omar tại
Kandahar.
Ahmed ShaH chết năm
1772 và người con trai kế vị
là Timur Shah di chuyển thủ đô về
Kabul, sau khi gặp phải những sự căng
thẳng ngày càng gia tăng với
những người Pushtun địa phương
ở Kandahar. Trong hơn năm năm sau đó
ông mất đi sự kiểm soát
vùng Kashmir và Sind ở miền Ðông,
Balkh ở miền Bắc và Khurasan cùng
Sistan ở phía tây. Ông còn phải
đối diện với lực lượng
Uzbek mới từ miền Bắc sau năm
1784 của triều đại Mangit đóng
đô ở Bukhara, triều đại
này cai trị cho đến năm 1921.
Sự qua đời
của Timur Shah năm 1793 báo trước
một quãng thời kỳ phân tán
dài, chứng kiến sự tranh đua
ngày càng gia tăng giữa Nga và
đế quốc Anh khi phía này tìm
cách chận phía kia tạo lập ảnh
hưởng trên khu vực này, bao
gồm vài vương quốc khan ở
Trung Á. Một lớp viên chức
tình báo thường xuyên của
Nga và Anh đổ vào vùng này
tìm kiếm sự xây dựng liên
minh cùng tìm kiếm những con đường
khác nhau mà quân đội sau này
có thể tiến tới. Một sự
thành công sớm về phía người
Anh là hiệp ước quốc phòng
song phương chống lại Nga và Pháp,
ký năm 1809 giữa Shah Shuja, là con
của Timur Shah, và một phái đoàn
Anh.
Vào năm 1837,viên
tướng thống đốc toàn
quyền Anh là Lord Auckland, gửi một phái
đoàn đến gặp người
lãnh đạo lúc đó ở
Kabul là Dost Muhammad để khuyến khích
ông nên hòa hoãn với lãnh
tụ người Sikh là Ranjit Singh (người
mà năm 1819 đã bao vây Peshawar, ở
về phía Bắc Punjab và Kashmir, kết
quả là làm cho Dost Muhammad phải đi
đến một cách giải quyết không
hữu hiệu lắm là tiến hành
chuyện chiến tranh với người
Sikhs ), và tái ký kết hiệp ước
an ninh hỗ tương ký năm 1809). Tuy nhiên,
lúc mà phái đoàn Anh tiếp
tục cuộc thảo luận ở Kabul, một
đội quân Ba-tư, được những
viên chức Nga ủng hộ, tiến quân
bao vây Heart, Nga cũng gửi một phái
đoàn đến để thảo luận
với Dost Muhammad. Dù người lãnh
đạo A phú hãn thất bại trong
chuyện thỏa hiệp ký kết với
Anh hay Nga và cuộc bao vây Heart thất bại,
sự hiện diện của Nga đã đánh
thức phe diều hâu trong chính phủ
Ấn do Anh bảo hộ, vốn là cơ
quan quyết định Anh phải tuyệt đối
chắc chắn rằng A phú hãn không
bị yếu thế trước sự
ảnh hưởng hay xâm lăng của
Nga.
Năm 1838, Lord Auckland
thông báo một lực lượng
xâm chiếm sẽ được gửi
đến A phú hãn để thiết
lập quyền lực cho Shah Shuja,người
bị truất phế không lâu sau khi ký
hiệp ước quốc phòng hỗ
tương năm 1809. Năm sau, quân đội
hỗn hợp Anh và Ấn độ tiến
vào A phú hãn từ phía Nam và
chiếm Kandahar, Dhazni, cùng Kabul. Vỉ nghĩ
rằng nghề nghiệp của họ coi như
vững vàng, họ tiến hành chuyện
đem vợ và con qua cùng với
lối sống thực dân mà họ
đã phát triển ở Ấn độ,
nhưng rồi chỉ sau có hai năm nhân
dân quá cay đắng đến độ
chín mùi để rồi võ trang nổi
dậy. Tình hình tệ hại ngày càng
nhanh chóng, Anh đồng ý ký một
hiệp ước bảo hộ cho sự
thiết lập cai trị ở Kabul của
Dost Muhammed. Tuy thế, họ không chờ
đợi nổi trong khi một đoàn
hộ tống A phú hãn được
thành lập để đưa họ an toàn
ra khỏi A phú hãn. Những người
đàn ông, đàn bà, trẻ
con rút lui bị phiền nhiễu khi họ
di chuyển trong tuyết dày tháng giêng
và hàng ngàn người đã
chết, dù từ vết thương
của chính họ hay do tiếp xúc với
khí hậu khắc nghiệt bên ngoài.
Chỉ có một người sống sót
duy nhất đi tới Jalalalbad để
kể lại những gì đã xảy
ra. Một số người sống sót
khi bị bắt làm tù binh. Tới
tháng tám năm đó, Anh gửi
một lực lượng trả thù
đến Kabul, gây thêm nhiều thương
vong và phá hủy đi những khu
phố xưa cổ kính ở Kabul. Rồi
sau đó họ rút lui.
Theo sau sự ra đi
của người Anh, Dost Muhammad chiếm Mazar-i-Sharif,
Kunduz, Badakshan, va Kandahar và có một thời
gian chiếm cứ Peshawar. Vào tháng
năm 1863,một tháng trước khi chết,
ông chiếm thêm Herat để đưa
vào vương quốc của ông. Con trai
Sher Ali lên kế vị ông và đã
cai trị trong một thời gian ngắn cho
tới năm 1879, người con trai này
cũng bị những anh em tính toán
những âm mưu nghiêm trọng nhằm
tranh giành ngôi vị của ông.
Trong thời gian này
Nga vì quan tâm đến sự can thiệp
của Anh ở A phú hãn nên tiến
hành chuyện sát nhập những vương
quốc khan vùng Trung Á hay điều
động họ dưới ảnh hưởng
của Nga. Vào năm 1869 khi lãnh tụ vùng
Bukhara chấp nhận làm thân phận chư
hầu cho Nga, Nga coi như đứng vững
trên bờ phía Bắc của sông
Amu Darya. Với hiệp ước Âu-
Nga năm 1872, Anh và Nga ngầm đồng
ý nhận con sông Amu Darya là biên giới
phía Bắc của A phú hãn. Năm
1873, dưới áp lực của Anh,
Nga đồng ý chuyện thành lập
một hành lang đất nhằm chia Nga từ
Ấn độ (do Anh bảo hộ ) nằm trong
vùng Ðông Bắc A phú hãn.
Phe Wakhan của vùng Badakshan do đó đã
mang A phú hãn vào thế đối
diện mặt đối mặt với Trung
Hoa qua trung gian chiều cao của dãy Hy-Mã-
Lạp-Sơn.
Vị lãnh đạo
Sher Ali của A phú hãn ngày càng
trở nên ưu tư về sự tăng
tiến đều đều của lực
lượng quân sự Nga vào Trung
Á và do đó tìm kiếm sự
bảo đảm từ phía Anh, mong Anh
sẽ cung cấp sự hỗ trợ nếu
biên giới phía Bắc bị quân
Nga tràn qua. Tuy thế ông từ chối
yêu cầu của phía Anh gửi một
phái đoàn Âu châu tới
Kabul, ông ngại là phía Nga cũng sẽ
yêu cầu như vậy. Khi Nga tiến quân
vào vùng Khiva và Merv trọng yếu
của Trung Á vào năm 1878 để
đối phó với sự chiếm
đóng quân sự của Anh ở
Quetta vào năm 1876 và rút quân ở
vùng Dardanelles ở Thổ nhĩ kỳ
vốn đang nằm trong tay người
Anh, Nga gửi một phái đoàn tới
Kabul dù Sher Ali không đồng ý. Phía
Anh đòi hỏi là họ cũng muốn
được phép có một phái
đoàn đóng đô ở
Kabul. Sher Ali vì đang đau buồn vì
cái chết của con trai nên chậm trễ
trong chuyện trả lời. Một phái
đoàn Anh được gửi tới
nhưng khi bị từ chối không được
tiến hành công chuyện ở Kabul,
Anh phản ứng bằng cách gửi
một lực lượng xâm lăng
đến A phú hãn.
Sher Ali di chuyển đến
phía Bắc bờ sông Amu Darya và
xin phép đi tới St Petersburg ở
Nga để tìm kiếm sự hỗ trợ
từ Nga hoàng. Ôâng bị từ
khước và chết ở Balkh vào
tháng hai năm 1879 trước khi ông
về lại Kabul để trình bày vấn
đề. Người con trai kế vị
Yaqub không đứng trong một tư thế
mạnh trước những đòi
hỏi của Anh và vào tháng năm
1879 ông đành miễn cưỡng
ký Hiệp định Gandamak, giao cho Anh kiểm
soát vấn đề đối ngoại
của A phú hãn và những đại
diện người Anh được phép
ở lại Kabul.
Ðại diện đầu
tiên của Anh tới Kabul vào tháng
bảy năm 1879 và bị ám sát
vào tháng chín kế đó. Lực
lượng Anh tiến vào Kabul, xúi
giục Amir nên từ chức. Vị
tư lệnh người Anh là tướng
Roberts trở thành người cai trị
có quyền thế ở Kabul cho đến
tháng bảy năm 1880, trong khi đó một
người cháu của Sher Ali là Abdul-Rahman
Khan, vốn sống lưu vong trong vòng mười
hai năm ở Samarkand và Tashkent, vượt
qua sông Amu Darya và tập họp quân sĩ
ở phía Bắc A phú hãn đầy
đủ để ông tự tấn
phong mình là vua nước A phú
hãn.
Phía Anh chấp nhận
sự lên ngôi của ông và rút
khỏi Kabul vào tháng tám năm 1880
do sự thất bại vào cuối tháng
bảy của một lực lượng Anh
tại Maiwand gần Kandahar. Tướng Roberts
ở Kabul tập hợp một đạo
quân hùng hậu để vào Kandahar
lật ngược thế cờ. Dù
thành công, Anh không muốn ở
lại. Một chính phủ cấp tiến ở
Anh dưới sự lãnh đạo
của Gladstone đã lên nắm quyền
vào tháng tư năm 1880 và thiếu
sự nhiệt tình thua chính phủ trước
trong vấn đề can thiệp của Anh vào
A phú hãn, đã quyết định
là lực lượng Anh nên rút
khỏi quốc gia này.
Tuy thế chính quyền
Anh cung cấp sự hỗ trợ về
tài chánh và quân sự cho Abdur-Rahman,
ông mới lên ngôi nên phải
đối diện với sự chống
đối từ bên trong. Với
sự kiểm soát của ông không
vượt ra ngoài quá Kabul, ông tính
toán sẽ chinh phục tất cả những
đất đai nằm giữa ảnh
hưởng của người Nga, Anh và
Ba-tư. Ðến năm 1896 ông thành
đạt được ý nguyện, ông
còn tiến sâu hơn vào những
vùng xa xôi như Hazarajat. Ôâng còn
phải đối phó với những
người chống đối trong bộ
tộc Pushtun ở miền Nam bằng cách
bắt buộc họ dời đổi đến
vùng phía Bắc Hindu Kush. Ở đây
họ đại diện, và tiếp tục
đại diện cho phe Pushtun giữa những
sắc dân Turkoman, Uzbek, Hazara và Tajik, một
yếu tố tạo thế vững mạnh
cho phe Taliban ở miền Bắc.
Dù có những
liên hệ của ông với chính
phủ Anh, Abdur-Rahman thận trọng không muốn
làm mất lòng sự thiết lập
tôn giáo của phe Ulema ( là những
người đàn ông học hỏi
tôn giáo thuần thành vốn diễn
dịch luật lệ của Shari) và phe Mullahs
( những người cầu nguyện
truyền thống) bằng cách cho phép
những ảnh hưởng Tây phương
luồn lách một cách rón rén
vào A phú hãn chứ không cho
vào một cách ồ ạt. Tuy thế
ông đoan chắc rằng những phe
trên không thể làm mưa làm gió
trong bộ máy nhà nước.
Sự căng thẳng
liên tục giữa Nga và Anh cuối
cùng đi đến những sự
thảo hiệp trong năm 1891 và 1895- 1896 để
điều chỉnh lại tình hình những
biên giới phía Bắc của A phú
hãn. Ðường ranh Durand, được
chấp nhận năm 1893, phác họa ra một
biên giới giữa A phú hãn
và Ấn độ của người
Anh, đã có hiệu quả là cắt
số dân Pushtun ra làm hai.
Abdur-Rahman mất năm
1901 và được người con
trai đầu tên Habibullah kế vị. Trong
khi Abdur-Rahman đã theo đuổi một chính
sách kiểm soát đối với
những lãnh tụ tôn giáo thì
Habibullah cho phép họ sử dụng quyền
hành ở mức độ quốc
gia và có một ảnh hưởng
ro õràng vào chính sách nhà
nước. Ðồng thời ông
cho phép bắt đầu một cuộc cải
tổ, được bày tỏ rõ
ràng trong tờ bán nguyệt san Seraj
Al- Akbar của Mahmud Tarzi. Nó tấn công cả
đế quốc Ââu châu và
sự chống đối thay đổi của
giới lãnh đạo tôn giáo,
thách thức cái ý tưởng
cho rằng thế giới Hồi giáo
không có gì để học hỏi
từ Tây phương. Habibullah được
đặc biệt chú ý vì thành
công của ông trong chuyện giữ cho
Anh và Nga không lại gần quá và
quyết tâm duy trì sự độc
lập và trung lập của A phú hãn,
dù trong thời kỳ Thế chiến
thứ nhất. Ôâng bị ám sát
vào năm 1919 và được người
con trai tên Amanullah thay thế.
Trong vòng vài
tháng lên nắm quyền lực, Amanullah
tuyên chiến với Anh, tìm kiếm
khai thác những điểm yếu của
Anh sau chiến tranh. Dù Anh thành công trong
chuyện lật ngược chuyện bị đánh
bại lúc đầu, Anh không còn
muốn chuyện chinh chiến và quyết
định ký Hiệp định Rawapindi năm
1919 trong đó đồng ý cho phép
A phú hãn được tư do điều
hành chuyện đối ngoại. Ngay sau khi
Hiệp định Rawapindi được ký
kết, chính phủ A phú hãn mới
thành lập thiết lập sự liên
lạc với Liên Xô qua sự trao
đổi của những phái đoàn,
và một Hiệp Ðịnh Hữu Nghị
được ký vào tháng Năm
1921. Những phái đoàn cũng
được gửi đến Âu
châu và Hoa Kỳ để thiết lập
quan hệ ngoại giao. Ðiều đó đã
chấm dứt những nỗ lực
của Anh nhằm kiểm soát A phú hãn.
Thất bại của Anh nhằm đô hộ
A phú hãn đã làm cho những
người A phú hãn tự hào
về khả năng không bị đánh
bại của quốc gia họ.
Hiệp ước
Anh- A phú hãn cũng được
ký năm 1921 đã thất bại không
giải quyết được câu hỏi
hóc búa về quyền hạn đối
với những bộ tộc Pushtun về
phía Ấn độ của người
Anh nằm ở đường ranh Durand.
A phú hãn muốn có quyền kiểm
soát tương đối với chuyện
trên nhưng người Anh từ chối,
họ sợ rằng dân Pushtun sẽ xúi
giục nổi loạn ở Ấn độ
do người Anh bảo hộ và sẽ
làm suy yếu hơn nữa quyền hành
mong manh của Anh trên lục địa Ấn
độ.
Liên xô cũng
phải đối đầu với sự
nổi loạn ở Trung Á, nơi mà
những người nổi loạn đang
nhận sự hỗ trợ từ những
tình nguyện viên từ A phú hãn
và Ấn độ. Dù chuyện đó
xảy ra thì Amanullah vẫn nhận viện trợ
quân sự từ Liên xô, cùng
với sự giúp đỡ phát
triển đường dây điện
thoại giữa những thành phố
chính.
Về nội bộ,
Amanullah phải giải quyết với những
cuộc nổi dậy có vũ trang của
những bộ tộc Pushtun chống lại chuyện
những chương trình cải cách
và hiện đại hóa mà ông
đã đặt ra để hành động.
Ông quan tâm về sự giật lùi
của A phú hãn so với Tây phương
và cảm thấy cách duy nhất để
làm mạnh nó lên, ở những
mức độ tôn giáo và văn
hóa, là phải canh tân cải tiến
đất nước. Oâng có đi
một chuyến dài 7 tháng sang Âu châu
vào năm 1928, chuyện này đã
đưa đến tin đồn là ông
sẽ phản lại Hồi giáo. Khi về
ông cố gắng áp dụng những
hình thức ăn bận theo Tây phương
và chuyện giáo dục song phương.
Chuyện này làm cho phe đối lập
chống đối mãnh liệt. Ôâng
phớt lờ lời khuyên là
phải củng cố quân đội trước
khi giới thiệu chương trình cải
tổ nên Amanullah nhận lấy hậu quả
là ông không thể chống lại sự
tấn công dữ dội của những
người nổi dậy có vũ trang
nên đành phải chạy trốn lưu
vong.
Amanullah bị một người
phe Tajik tên Bacha-e-Saqqao, vốn nắm đầu
lực lượng tiến công, lật
đổ. Chín tháng sau thì Bacha-e-Saqqao
bị một người phe Pushtun tên Muhammah
Nadir Khan, một cựu tướng lãnh
trong quân đội của Amanullah, truất
phế. Muhammah Nadir Khan đã từng phê
phán nặng nề chuyện Amanullah đưa
ra những thay đổi mạnh bạo vào
trong nước A phú hãn. Ôâng
không những lưu tâm đến
chuyện nhà vua không quan tâm đến
chuyện hỗ trợ chương trình
cải cách bằng một quân đội
tương đối mạnh , mà ông
còn tin rằng bất cứ một chương
trình cải cách nào phải được
giải quyết với sự cẩn trọng
tối đa trước mặt phe cực
kỳ bảo thủ của giới xã
hội thành thị. Vào tháng Chín
năm 1930 một hội đồng gồm những
người lãnh đạo bộ tộc
và tôn giáo, còn gọi là Loya
Jirga, được triệu tập bởi
Nadir Khan, để tuyên bố ông lên
làm vua và đưa sắc lệnh cho phép
luật Hanafi Sharia’a của phái Si Hồi giáo
sẽ trở thành luật lệ chủ
yếu chiếm ưu thế. Tuy nhiên, hiến
pháp năm 1931 tạo nên sự xáo
trộn bằng cách cho tôn giáo và
hệ thống pháp luật thế tục đi
song song với nhau. Hình phạt càng nặng
nề dưới luật Shari’a, như chặt
tay nếu bị tội ăn cắp, ngày
càng trở nên hiếm hoi theo ngày
tháng trôi qua.
Nadir Khan bị ám
sát năm 1933 và được người
con trai 19 tuổi tên Zahir Shah lên kế vị.
Dù ông này trị vì trong vòng
40 năm, ông hành động theo những
sự chỉ dẫn của những ông
chú về luật lệ cai trị của ông.
A phú hãn duy trì sự trung lập
trong Thế Chiến Thứ Hai, dù có
quan hệ ngoại giao mạnh mẽ với
Ðức, Ý và Nhật trong những
năm đó.
Thời kỳ ngay
sau chiến tranh chứng kiến sự thương
thảo sớm cho nền độc lập
của Ấn độ, căn cứ trên
sự chia cắt giữa Ấn độ
và Pakistan. Chính phủ A phú hãn
nắm lấy cơ hội từ những
cuộc thương thuyết đó để
thương lượng rằng những
khu vực của bộ tộc người
Pushtun cư trú ở những tỉnh
biên giới phía Tây-Bắc, vốn
đã ở trong tình trạng bán
độc lập (semi-independence) trong mối liên
hệ với Ấn độ của Anh từ
năm 1901, phải được chọn cho
được độc lập. Dù cuộc
tranh luận đang diễn ra, nước Pakistan
được sinh ra năm 1947 với
những khu vực bộ tộc được
kết hợp vào. Tuy nhiên, không
được bao lâu thì Pakistan cũng
phải dùng vũ khí để chống
lại những cuộc nổi dậy của
những bộ tộc và vào năm
1949, không lực Pakistan oanh tạc bom vào
một khu vực bộ tộc dẫn đến
một làng bên phía biên giới
A phú hãn. Chính phủ A phú hãn
phản ứng bằng cách hủy tất
cả những hiệp ước quyết
định biên giới A phú hãn
với Ấn độ do Anh bảo hộ
và ủng hộ sự bắt đầu
thành lập một hội đồng người
Pushtun về phía Pakistan của ranh giới
Durand. Ðể trả đũa, Pakistan ban hành
lệnh cấm những sản phẩm dầu
đi tới A phú hãn. Chính phủ
Kabul nhanh chóng ký một hiệp ước
trao đổi với Liên xô vào
tháng 7 năm 1950 trong đó Liên xô
sẽ cung cấp những sản phẩm dầu
lửa và nhiều hàng hóa quan
trọng khác để đổi lấy
len và sợi tươi từ phía
A phú hãn. Liên xô cũng đồng
ý cho phép hàng hóa A phú hãn
tự do vào lãnh thổ Liên xô,
và bắt đầu thăm dò dầu
ở phía bắc A phú hãn.
Vì vậy A phú
hãn bắt đầu nhìn Liên xô
như một bạn đổi chác và
như một nguồn hỗ trợ. Liên
xô cho A phú hãn vay 100 triệu vào
năm 1955 và chuyến hàng viện trợ
quân sự đầu tiên đến
một năm sau đó, sau khi chính phủ
a phú hãn tìm cách lấy vũ
khí từ phía Hoa kỳ nhưng không
thành. Liên xô cũng giúp đỡ
cho chuyện phát triển những sân
bay quân sự nằm gần Mazar-i- Sharif ở
phía Bắc, Shindand ở phía tây
và Bagram nằm phía Bắc Kabul. Phía
Hoa kỳ cũng dính vào với mức
độ nhỏ hơn, khởi đầu
với hai dự án làm đập
ở lưu vực Helmand, cùng với
một xa lộ lớn nối với một
xa lộ khác được Liên xô
xây dựng để lần đầu
tiên làm cho những trung tâm đô
thị đi lại với nhau được
dễ dàng hơn
Tiến trình nối
lại tình hữu nghị với
Liên xô và Hoa kỳ được
tăng thêm trong thời gian Muhammad Daoud Khan
cầm quyền thủ tướng từ
năm 1953 đến 1963. Ôâng cũng
tái tục quá trình đổi mới
vốn đă suy tàn nhiều sau sự
sụp đổ của Amanullah năm 1929. Vào
tháng Tám 1959, Daoud và những nhân
vật trọng yếu trong chính quyền xuất
hiện trên một sân khấu trước
quần chúng với những người
vợ và con gái mở khăn che
mặt ra. Những sự phản đối
không tránh được của đám
lãnh đạo tôn giáo bị quân
đội dẹp ngay, rồi được
tăng thêm sức mạnh bởi sự
giúp đỡ của Liên xô,và
một tiến trình dần dần xảy
ra, bắt đầu với chuyện cho phụ
nữ gia nhập lực lượng làm
việc ở đô thị. Khi quân
đội được dùng ở
Kandahar để thúc ép chuyện thâu
thuế, những người biểu tình
liền phá hoại một ngôi trường
dành cho nữ sinh, một nhà tắm
công cộng dành cho phụ nữ và
một rạp chiếu bóng như là những
biểu tượng cho sự chống đối
sự canh tân.
A phú hãn bị
đẩy nhiều hơn về phía Liên
xô khi những mối liên hệ ngoại
giao giữa Pakistan và A phú hãn bị
gián đoạn năm 1961 vì vấn đề
người Pushtun, hậu quả là dẫn
đến chuyện đóng biên giới
và ngưng lại chuyện di chuyển đổi
chác băng qua Pakistan. Biên giới vẫn
còn đóng cho đến năm 1963,
khi sự từ chức của Daoud đã
làm cho chuyện thỏa hiệp với Pakistan
được khả thi.
Ngay sau khi Daoud từ
chức, vua Zahir Shah thúc đẩy thêm
vào tiến trình cải tổ hiến
pháp vốn được Daoud khởi
xướng. Một ủy ban cố vấn
hiến pháp, trong đó có hai người
đàn bà, được thành
lập. Trong những điều khoản quan
trọng hơn của hiến pháp 1964 là
sự bình quyền hợp pháp của
đàn bà và đàn ông.
Hiến pháp cũng đề cao hệ thống
luật pháp dân sự lên trên
luật Hồi giáo Shari’a, và như thế
là đảo ngược hiến pháp
năm 1931. Dù thế nó vẫn minh định
rằng, " Hồi giáo là tôn giáo
thiêng liêng của A phú hãn " và
quy định luật Hanafi Shari’a sẽ là
phương cách giải quyết sau cùng
khi không có luật thường áp
dụng tới. Thêm vào đó,
nó quy định rằng một quốc hội
được dựng lên với
28 hội đồng tỉnh. Một số cá
nhân trong quốc hội sẽ là phụ
nữ, một số được nhà
vua đề cử. Quốc hội đầu
tiên được bầu lên năm
1965, có bốn phụ nữ trong tổng
số 216 vị .
Vào cuối thập
niên 1960 chứng kiến sự bất
bình ngày càng gia tăng khi lớp
người trẻ về thủ đô
từ những phần đất khác
của quốc gia để có điều
kiện học hành dễ dàng hơn, đặc
biệt là ở đại học Kabul,
và họ nhìn ra guồng máy chế
độ vẫn còn dành cho một thiểu
số ưu tú lãnh đạo.Những
phong trào nhắm thay đổi đã
tìm thấy đất dụng võ trong
số những sinh viên ở Kabul. Nhiều
người ủng hộ một tiến trình
cải tổ mau hơn và tìm thấy một
phương tiện hành động trong Ðảng
Dân Chủ Nhân Dân A phú hãn
(the People’s Democratic party of Afghanistan (PDPA)). Nhiều người
khác ồn ào phản đối những
thay đổi vốn đang xảy ra và
chiến đấu để cho những
giá trị Hồi giáo được
trở về.
Ðảng Hồi
giáo, thường họ được
gọi như thế, tiến hành chuyện
thiết lập một phong trào chính trị
sẽ làm việc cho sự hình thành
một đất nước Hồi giáo
căn cứ trên luật Shari’a. Trong những
người mới được
lôi kéo có những người
con của phe Tajiks và Uzbeks vốn trốn vào
phía Bắc A phú hãn từ cuộc
ruồng bố tôn giáo do chính quyền
Liên xô gây ra dọc theo vùng Trung Á
trong thập niên 1920 và 1930.
Những năm sau
là những năm có thể coi là
rối loạn, với những đảng
xã hội và Hồi giáo ngày càng
thêm sức mạnh. Ba năm tai họa đói
kém từ 1969 đến 1972 đã
đo lường sự hữu hiệu
và tình trạng nguyên vẹn của chính
quyền và thực tế chứng
minh là chính quyền thiếu năng lực
trong chuyện trị nước an dân. Cuối
cùng, Zahir bị truất phế vào tháng
bảy 1973 bởi người bà con
của ông và bởi cựu thủ
tướng Daoud.
Daoud trông cậy vào
quân đội và thành phần ôn
hòa trong Ðảng Nhân Dân Dân
Chủ PDPA làm căn bản ủng hộ quyền
lực chính của ông. Vài thành
viên trong đảng PDPA trở thành
hội viên của Uûy Ban Trung Ương của
Daoud. Daoud bắt tay vào tiến trình cải
cách thêm, trong đó bao gồm có
cải cách ruộng đất, nhưng cũng
ý tứ sự cần thiết cần
phải tiến hành một cách thận
trọng để tránh sự phản ứng
từ những ý kiến bảo thủ
từ nông thôn. Sự căng thẳng
nhanh chóng lan rộng và những thành
viên của ẳng Nhân Dân Dân Chủ
bị thải hồi ra khỏi chính quyền.
Rồi Daoud bắt đầu tấn công
đến những thành phần có
khả năng chống đối, ép buộc
những Ðảng Hồi giáo phải
chạy tới Pakistan. Ðồng thời
ông tìm kiếm cách giảm bớt
sự nhờ cậy của ông vào
Liên xô bằng cách ngày càng
chuyển hướng sang giao dịch với
Tây phương và tăng cường
mối quan hệ với Iran.
Vào ngày 17 tháng
4 năm 1978 Daoud bị giết trong một cuộc
đảo chánh của phe quân sự
do Ðảng Dân Chủ Nhân Dân tổ
chức , có thể là do được
Liên xô hỗ trợ. Sự thay đổi
tận gốc rễ của chính quyền
mới và sự thanh trừng những
người chống đối đã
thúc đẩy một số người
chuyên môn rời nước tới
Pakistan, Ââu châu và Hoa Kỳ. Ở
vùng quê, Ðảng Nhân Dân Dân
Chủ bỏ qua đi những phản ứng
đối với những cố gắng
mới đây của Amanullah nhằm giới
thiệu những đổi mới nhanh
chóng, Ðảng lập tức đưa
ra những biện pháp nhằm tạo ra
một giới hạn cho quyền tư hữu
đất đai, giảm bớt nợ
nần ở thôn quê, giới hạn
giá của cô dâu trong chuyện cưới
hỏi và định tuổi tối thiểu
trong chuyện hôn nhân. Một chương
trình phá nạn mù chữ lớn
lao cũng được phát động
như là một chương trình giáo
dục trường kỳ nhắm vào
trẻ gái và trai, đànbà và
đàn ông, trẻ và già.
Ðối với
Amanullah, không có một số gắng nào
được làm để xây dựng
một tiến trình tuần tự của
cải cách từ phía dưới.
Những biện pháp thi hành quên
đi những sự phức tạp
của quyền sở hữu đất
và những mối liên hệ ở
nhà quê, và chương trình xóa
nạn mù chữ được thi
hành mà không ngó ngàng gì
tới đòi hỏi về chuyện
đàn bà và con gái phải được
giáo dục cách biệt. Sự chống
đối xảyra khi dùng những thầy
giáo nam từ những thành thị
để dạy cho đàn bà và
con gái, vùng với những nội
dung giảng dạy có liên quan đến
xã hội không tưởng hơn là
những thực tế ở vùng
quê A phú hãn. Những người
già cảm thấy nhục nhã khi bị
dạy bởi những người
trẻ có tuổi chỉ bằng một phần
nhỏ tuổi người già.
Sự dùng võ
lực của Ðảng Dân Chủ Nhân
Dân để làm cho những thay đổi
có kết quả, cọng thêm với
sự dửng dưng một cách tàn
bạo, không quan tâm gì đến những
nhạy cảm của xã hội và tôn
giáo, hậu quả là tạo nên một
sự chống đối rộng lớn
từ những người dân
nông thôn, trong đó có cả những
thành phần mà Ðảng nghĩ rằng
Ðảng đang tranh đấu quyền lợi
cho họ. Sự tức giận của quần
chúng là tìm thấy một lối
thoát thích hợp cho lời kêu
gọi đoàn kết cho một cuộc thánh
chiến của Hồi giáo (Jihad). Hết
chỗ này đến chỗ khác đều
có bạo động nổ ra để chống
lại chế độ, và lực lượng
của chính phủ được gọi
đến để chống lại bạo động
ngày càng dữ dội hơn. Có
những cuộc đào ngũ lớn
từ quân đội xảy ra sau đó.
Có điều
thích thú khi thấy chính những
khu vực không có bộ tộc của
miền Bắc, bao gồm vùng Shi’a của
vùng trung tâm A phú hãn, là nơi
phát động những cuộc nổi
dậy đầu tiên. Những bộ tộc
Pushtun sẵn sàng để vui vẻ tin tưởng
rằng chính phủ của Ðảng Nhân
Dân Dân Chủ có hiệu quả là
do số thành viên Pushtun chiếm ưu thế
trong Ðảng. Chỉ khi Liên xô xâm
lăng thì đông đảo những
bộ tộc mới tham gia kháng chiến.
Hơn nữa, những người
Hồi giáo, vốn xuất thân từ
miền Bắc, không còn nghi ngờ
gì nữa về những đường
lối mục tiêu của Ðảng, vì
họ đã từng nắm vai nhau ở
Ðại học Kabul, đặc biệt là
ở Jamiat, đã có đủ sự
tổng hợp cần thiết của sức
mạnh tổ chức và sự quý
trọng truyền thống để thúc
đẩy họ tạo nên sự ủng
hộ lớn lao. Do đó cuộc chống
đối từ ban đầu, ở
một mức độ nào đó,
là sự đứng dậy của
thành phần trong xã hội vốn bị
phe Pushtun cai trị coi thường từ
lâu. Nó cũng là sự biểu
hiện của tầng lớp trẻ có
học chiếm lấy quyền hành từ
tầng lớp quý tộc cũ, xây
dựng một liên minh mới với
phe Ulema và có những liên hệ
phát triển với những cấp
lãnh đạo bộ tộc ngoài tầng
lớp quý tộc. Sự lãnh đạo
chống đối mới khuyến khích
sự tái lập luật Shari’a như một
lề lối luật pháp chính yếu.
Liên xô đã
lợi dụng sự chiếm lấy quyền
lực của Ðảng Nhân Dân Dân
Chủ bằng cách dính líu sâu
đậm hơn vào A phú hãn về
vấn đề kinh tế, chính trị
và quân sự. Vào tháng Mười
Hai năm 1978, một hiệp định được
ký kết cho phép chính phủ Kabul được
kêu gọi Mạc tư khoa giúp đỡ
quân sự trực tiếp nếu nhu
cầu trở nên cần thiết. Ðiện
Kremlin không được vui lắm khi thấy
tình hình diễn ra ở A phú hãn
nhưng cảm thấy họ không còn lựa
chọn nào khác hơn là phải ủng
hộ Ðảng Nhân Dân Dân Chủ.
Với chuyện lật đổ vua Shah ở
Iran bởi một chính phủ Hồi giáo,
Mạc tư khoa cảm thấy bất an trước
viễn cảnh những người Hồi
giáo ở A phú hãn sẽ khai thác
bất cứ mâu thuẫn gì có
thể có đối với chế
độ của Ðảng Nhân Dân Dân
Chủ. Có những sự đấu
tranh nội bộ trong cấp lãnh đạo
Ðảng Nhân Dân Dân Chủ đưa
đến sự lật đổ và
ám sát Tổng thống Nur Muhammad Taraki vào
tháng Chín năm 1979 và thay thế ông
này bởi Tổng thống Hafizullah Amin.
Tuy nhiên Amin tỏ thái độ độc
lập với sự tin tưởng của
Mạc tư khoa và điều này làm
cho Liên xô lolắng về những
quyền lợi tương lai của họ
ở A phú hãn.
Có nhiều suy đoán
về chuyện tại sao Liên xô xâm
lăng A phú hãn vào cuối tháng
12 năm 1979, nhưng bằng cớ đã
cho thấy cái sợ lịch sử
của Mạc tư khoa về chuyện bị bao
vây từ hướng Nam là một
nguyên nhân chủ yếu. Có những
biểu lộ cho thấy Mỹ có thể
tăng cường sức mạnh của
sự chống đối Hồi giáo,
và những lo sợ rằng nó
có thể có những tham vọng thiết
lập một sự hiện diện quân sự
nơi đây nếu những điều
kiện cho phép, thêm vào với
sự nối lại tình hữu nghị
ngày càng dâng cao của Washington và
Bắc Kinh đã tạo ra một cảm giác
hốt hoảng cho điện Kremlin. Cuộc xâm
lăng của Liên xô đưa đến
cái chết của Tổng thống Amin. Ông
được thay thế bằng một thành
viên tương đối ôn hòa trong
Ðảng Nhân Dân Dân Chủ là
Babrak Karmal, người đã đến
từ Mạc tư khoa ít lâu sau cuộc
xâm lăng.
Lực lượng
Liên Xô ở lại A phú hãn
cho đến ngày 15 tháng Hai năm 1989.
Họ quyết định rút quân năm
1986 theo Hiệp ước Geneve vào ngày
14 tháng 4 năm 1988 là kết quả của
những yếu tố nội bộ Liên
Xô cũng như vì chuyện thất bại
quân sự. Kinh tế Liên xô đã
tỏ ra những dấu hiệu suy kém
và khó mà theo đuổi một cuộc
chiến tranh bên ngoài. Hơn nữa,
những cựu chiến binh từ cuộc
chiến tranh trở về trở nên
giận dữ, có tâm trạng vỡ
mộng và bày tỏ cảm xúc của
họ cho mọi người biết bằng
những cuộc chống đối. Những
sự thay đổi trong chính trị bộ
cũng có ảnh hưởng đến
rất nhiều. Mikhail Gorbachev lên name quyền
lực năm 1985 không chia sẻ khuynh hướng
hiếu chiến của những người
tiền nhiệm của ông ta và có
thể dần dần xây dựng một
sự ủng hộ cho vấn đề chấm
dứt sự dính líu quân sự
của Liên xô. Cuối cùng, tiến
trình dẫn đến chuyện rút quân
cũng được hình thành trong
sự sụp đổ của Liên Bang Sô
Viết năm 1991, báo hiệu sự ra đời
một chính phủ của những người
kháng chiến (Mujahidin) vào tháng 4 năm
1992.
Lawndale, một tối
Ðông lạnh lẽo, đìu hiu đầu
năm 2002
Trần Viết
Ðại Hưng
|