CHÍNH
SÁCH PHÂN BIỆT GIỚI TÍNH CỦA
TALIBAN
Ðàn bà…không
phải chỉ là sự tái sinh về
sinh vật học của đất nước,nhưng
còn là tái sinh về văn hóa
nữa, họ thường được
giao cho nhiệm vụ trôngcoi " nền văn
hóa " và có trách nhiệm truyền
nó lại cho trẻ convà xây dựng
" căn nhà " trong một cung cách văn
hóa đặc biệt.
Ở A phú hãn tiến
trình đòi bình quyền cho nữ
giới không phải là một chuyện
dễ dàng. Thật ra, đối với
đa số quảng đại quần chúng
sống ở vùng thôn quê, câu
hỏi về việc làm của phụ nữ
và giáo dục không phải là một
vấn đề gì cả. Ðàn bà
thường làm việc trên ruộng
đồng và được cung cấp
cho một nền giáo dục tối thiểu
phù hợp với vai trò này
và với vai trò làm mẹ. Ở
vùng đồng quê, ngay cả đến
cuối thế kỷ hai mươi, theo truyền
thống thì con gái nhận được
một nền giáo dục hợp lý
nào đó nhưng đối với
đàn bà, khi lấy chồng rồi
thì họ không còn phải làm việc
ngoại trừ họ muốn như thế.
Khi phụ nữ dần dần đóng
góp vào lực lượng lao động
ở Kabul từ thập niên 1950, họ
đi vào những vai trò dịch vụ
thông thường như: thư ký, y
tá, người trông coi văn phòng,
chiêu đãi viên hàng không.
Chỉ một thiểu số học nghề chuyên
môn để trở thành bác
sĩ, luật sư, kỹ sư và ký
giả. Cho tới lúc đó những
người lãnh đạo truyền thống
và phe Ulema đã bỏ công sức
nhiều trong chuyện chống lại chiều
hướng này dù nó phát
triển ở mức độ chậm.
Căn bản của những người
có quan điểm bảo thủ có ý
nghĩ lo sợ rằng nếu đàn
bà được giáo dục hay làm
việc, họ sẽ bị ảnh hưởng
của Tây phương và những ý
tưởng phàm tục và họ sẽ
truyền những thứ này vào
con cái của họ.
Tuy nhiên có người
cho rằng đó chính là tín ngưỡng
của phe Taliban, rõ ràng là họ đi
đến tận cùng của tư tưởng
bảo thủ. Có bốn điểm chính
trong chính sách của họ: cấm đàn
bà làm việc, ngoại trừ trong ngành
y tế sức khỏe; tạm thời
ngưng chuyện giáo dục cho phụ nữ,
nại cớ là cần hoàn thiện
một chương trình giáo dục thích
hợp trước đã; công
bố những luật lệ về cách
ăn mặc cho cả đàn bà và
đàn ông, đòi hỏi đàn
bà phải bận áo trùm đầu
đến chân ( burqas) và đàn
ông phải để râu, tóc không
được chải theo kiểu nầy nọ,
quấn khăn đầu; và đưa
ra sự kiểm soát nghiêm nhặt về
sự di chuyển của phụ nữ khi
ra khỏi nhà để phụ nữ luôn
luôn được cách biệt với
những người đàn ông
lạ hay được hộ tống bởi
những người đàn ông
bà con khi ra khỏi nhà. Phe Taliban cho rằng
họ sẽ cho phép đàn bà làm
việc khi họ có sự sắp đặt
xong về chuyện tách rời đàn
ông và đàn bà khi làm việc
và đi lại.
Tuy nhiên, có những
thành phần trong Taliban đã cho phép
những cơ quan thiện nguyện thuê phụ
nữ trong những vai trò đặc
biệt, nơi có nhu cầu cần phụ
nữ hay nơi đàn bà làm
việc cách biệt với đàn
ông, dưới sự hướng
dẫn của một số đàn bà
khác. Có điều không rõ là
chuyện cho phép này có được
phong trào Taliban kiểm duyệt toàn bộ
hay không, và có những phản
ứng do dự về chuyện này do
Bộ Nâng Cao Ðạo Ðức và
Bộ Ngăn Ngừa Tội Aùc bày
tỏ. Aûnh hưởng lớn nhất
của chuyện cấm đoán đàn
bà làm việc đã có sức
tác động mạnh trên chuyện giáo
dục. Trường nam sinh cũng như trường
nữ sinh đều bị đóng cửa
vì phụ nữ không được
làm việc như người giảng dạy.
Một ảnh hưởng
lớn nữa ảnh hưởng đến
việc làm của trẻ em trên những
đường phố. Những người
đàn bà trước đây
đã từng làm việc hay sống
còn vào chuyện đổi chác nhỏ
đã mất một nguồn lợi tức
chủ yếu. Du có hệ thống gia đình
mở rộng, điều cấm đoán
trên sẽ có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến khả năng kinh tế sống
còn của nhiều gia đình; đặc
biệt có những gia đình tùy
thuộc vào lợi tức của người
phụ nữ, và khi không nhận được
sự hỗ trợ bên ngoài cho gia
đình, thì lợi tức chỉ
còn một chút ít mà thôi. Một
số lớn những gia đình
không còn lựa chọn nào ngoài
chuyện nói con trẻ của họ bán
đồ đạc vụn vặt trên đường
phố hay đi ăn xin thực phẩm hay
tiền. Nhiều người trong số 50000
người tị nạn đã tới
Pakistan đã phải làm như vậy bởi
vì gia đình họ bất thình lình
bị mất lợi tức kiếm được
từ người đàn bà
trong gia đình.
Tương tự như thế,
dù phe Taliban được sự hỗ
trợ mạnh mẽ của dân số
tỵ nạn ở Pakistan, nhiều người
tỵ nạn cảm thấy họ không nghĩ
đến chuyện trở về A phú
hãn cho đến khi con gái của họ
có thể nhận được một
nền giáo dục và trừ phi phụ
nữ được phép làm việc.
Chuyện làm việc của phụ nữ
đã chứng minh là một sự
cần thiết cho nhiều gia đình trong
trại tỵ nạn và viễn cảnh sống
còn ở A phú hãn mà không
có chuyện lựa chọn đó, trong
điều kiện kinh tế ngặt nghèo,
rõ ràng là một điều không
được lôi cuốn lắm để
trở về.
Sự cấm đoán
giáo dục phụ nữ được
coi là dính líu với sự hình
thành của một chương trình giáo
dục thích hợp, để có thể
bảo đảm rằng thế hệ kế
tiếp được nuôi dưỡng
lớn lên trên căn bản của
một hệ thống đức tin có
thể tin cậy được. Sự tạo
thành một chương trình mới
nghe nói là điều kiện của phe
Taliban khi mới kiểm soát toàn vẹn
đất nước A phú hãn và
rồi kêu gọi phe Ulema để quyết
định toàn bộ chương trình.
Chương trình hiện nay , vốn được
soạn bởi những đảng Mujahidin
và do đó có thể coi là đã
nhất trí với Hồi giáo, được
xem là không thể chấp nhận.
Ðể trả lời
những sự phê phán, phe Taliban khẳng
định là họ chấp nhận bản
chất của sự giáo dục của
đàn bà và đàn ông
nhưng nhấn mạnh là những điều
kiện phải đúng cho nền giáo
dục được xảy ra. Tuy nhiên
có những lời lên tiếng
của những bậc trưởng thượng
trong phe Taliban rằng những trường
của nữ sinh ở Kabul có thể
mở vào mùa xuân năm 1997, có
thể dựa trên những sự
khởi đầu ở những
khu vực như Paktia, Ghazni và Kandahar, nơi
những trường nữ sinh đã
đang được hoạt động.
Tuy nhiên khi mùa xuân 1997 đến và
đi rồi mà chỉ thấy trường
dành cho nam sinh hoạt động mà thôi.
Phe Taliban không xa lạ với
thế giới Hồi giáo trong chuyện
cần phải tuân theo những luật
lệ về cách ăn mặc. Tuy nhiên
họ đã đi đến mức
độ quá khích trong chuyện áp
dụng luật lệ về cách ăn mặc.
Có những sự thực hành
giai đoạn bởi một số thành
phần trong phe Taliban, đặc biệt là
những cảnh sát tôn giáo, nên
họ đã đánh đập những
người đàn bà bằng roi
ngay trên đường phố nếu
những người đàn bà
không tuân đúng theo luật ăn
mặc và chuyện này đã có
ảnh hưởng lớn đến
chuyện đi lại của số dân phụ
nữ. Có nhiều bằng chứng
cho thấy không khí sợ hãi đã
ngăn cấm người đàn bà
rời khỏi nhà trừ phi đó
là chuyện quá sức cần thiết.
Cho đến những người làm
việc trong ngành y tế sức khỏe,
dù họ đã được phép
đi làm việc, thì phải hoặc là
bỏ công việc của họ hay sống trong
bệnh viện trong suốt tuần làm việc
để giới hạn tối đa chuyện
phô này hình dạng của họ trước
những lực lượng Taliban. Ðã
có sự suy giảm về số lượng
đàn bà và trẻ con tới
những cơ quan y tế và chuyện này
càng trầm trọng hơn bởi luật
bắt buộc đàn bà chỉ có
thể tới khám bệnh ở một
bệnh viện duy nhất ở Kabul.
Nói như thế để
thấy có những sự khác biệt
giữa những thành phố, chủ
yếu là ở Kabul và Herat, và
những khu vực khác do Taliban kiểm
soát, với lực lượng Taliban
trú đóng ở Kabul và Herat thường
có những hành động thô
bạo hơn ở những khu vực
khác. Ðã có báo cáo về
những trường hợp những
phụ nữ bị đánh đập
trong lúc đi ra ngoài mua sắm ở
Herat, chuyện này chỉ ngừng lại
khi viên chỉ huy cảnh sát tôn giáo
bị tạm thời thuyên chuyển đi
tới những nhiệm vụ khác
vào tháng Tư 1997. Cũng có một
trường hợp được
báo cáo vào tháng Giêng 1997 về
một người đàn bà Tây
phương làm chuyện thiện nguyện bị
đánh ở Herat vì không tuân
theo yêu cầu phải mang áo trùm người
Burqa. Phe Taliban đã đưa ra lời
xin lỗi về chuyện này.
Thật ra, không rõ mức
đôä đối xử của cảnh
sát tôn giáo đối với
phụ nữ có được sự
ủng hộ của số lớn lãnh
đạo Taliban tới mức độ
nào. Một số lời lên tiếng
từ Kandahar đã phê phán nặng
lời đến những hành vi
như vậy. Tuy nhiên, những chuyện như
thế vẫn tiếp tục xảy ra, mặc
dù không có đường hướng
cố tình rõ ràng nào. Do đó
thật khó mà nói, ở bất
kỳ thời điểm nào, là
liệu tình hình ngày càng tệ hại
thêm hay là do cảnh sát thi hành
một thái độ thô bạo hơn.
Một vấn đề nữa
là do những người lính có
một cái nhìn quá đơn giản
với chính sách phân biệt giới
tính của Taliban; cho nên là chuyện
dễ dàng hơn để áp dụng
sự cấm đoán tuyệt đối
đối với chuyện làm việc
của đàn bà hơn là mù
mờ trong chuyện tìm kiếm những
gì thích hợp cho đàn bà
làm việc ở những khu vực
đặc biệt hay với những cơ
quan ngoại quốc. Ðối với đa
số những quân sĩ, Kabul với
tất cả sự bảo thủ tương
đối, được coi là một
nơi suy đồi và tham nhũng. Có
sự ngoại lệ là những văn
phòng ngoại quốc hay số đàn
bà làm việc cho họ coi như không
bị luật lệ Taliban ràng buộc.
Phe Taliban cũng đi đến
chỗ quá khích khi đòi hỏi
khuôn mặt đàn bà phải được
che lại. Những đảng kháng chiến
Mujahidin chưa bao giờ bắt buộc đàn
bà phải bận áo chùng Burqa, dù
cũng có nhiều người dùng
áo chùng này trong những vùng
do quân kháng chiến Mujahidin kiểm soát.
Ở những phần khác của
thế giới Hồi giáo, đa số
đàn bà phải đòi hỏi
che đi một phần khuôn mặt, cho dù
là mang khăn ở trên mắt, hay
chỉ để lộ hai cặp mắt. Ngay cả
trong nước A phú hãn, áo chùng
Burqa là một hiện tượng thành
thị. Ðàn bà ở thôn quê
mang khăn trùm đầu ngoài trừ
khi họ đi xuống phố, khi mà họ
có thể mặc vào nếu họ có
nó. Sự áp đặt phải bận
áo chùng burqa đã tạo thêm
gánh nặng kinh tế thêm cho những
gia đình thành thị lúc mà
nền kinh tế đang hồi tệ hại.
Nhiều gia đình không mua nổi áo
chùng burqa và đàn bà phải
mượn áo của người khác
nếu họ phải đi ra ngoài, chuyện
này làm cho phong trào bắt bận áo
chùng bị cản trở ít nhiều.
Sự di chuyển của những
người đàn ông ra ngoài
nhà cũng bị hạn chế bởi
sự ban hành luật lệ khắt khe về
cách ăn bận. Ðàn ông phải
mua áo quần mới, rồi đến
khăn quấn đầu, xảy ra trong thời
kỳ khó khăn kinh tế. Vả lại,
không phải người đàn ông
nào cũng có khả năng làm
cho râu ra rậm rạp đầy đủ.
Những người đàn ông
lo ngại chuyện họ trở thành mục
tiêu bị phe Taliban tóm vì không tuân
theo luật lệ ăn mặc để rồi
bị nghi ngờ và bắt giữ
vì nghi ngờ có liên hệ với
những lực lượng đối
lập hay bị tố cáo tham nhũng.
Những chính sách
về giới tính của Taliban phải
được nhìn trong cái khung của
sự phát triển thuộc những
chính sách có liên quan đến
giới tính từ đầu thế
kỷ hai mươi, chuyện dùng giới
tính như một chìa khóa chủ yếu
của những đảng Mujahidin, và
những hình thức khác nhau mà
chính sách giới tính đã
thi hành theo nguyên lý cơ bản của
đạo Hồi.
Trong xã hội truyền thống
cũ, đa số đàn bà đóng
vai trò làm vợ và mẹ, và
chuyện này đã đóng một
vai trò kinh tế quan trọng vào một
vài phương diện của những
hình thức nông nghiệp thông thường,
đặc biệt là ngành trồng trọt,
nuôi súc vật và nghề thủ công.
Ðàn ông nhận nhiều việc trong
tiến trình làm chuyện canh nông và
cũng đóng một vai trò trong chuyện
nuôi nấng trẻ con. Họ còn có
khuynh hướng mang trách nhiệm trong chuyện
mua sắm nữa. Tuy nhiên, đàn
bà được coi như một cái
xe chủ yếu nhằm chuyển tải đạo
Hồi từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Thêm vào đó, đàn
bà có một vai trò tượng
trưng như là cốt lõi hay tim của
xã hội. Ðây đặc biệt là
trường hợp của luật thuộc
phe Pushtuns, Pushtunwali, nơi là sự bảo
vệ đàn bà dính liền với
sự bảo vệ xã hội. Tương
tự, vinh dự của xã hội tùy
thuộc vào vinh dự của đàn
bà. Chẳng hạn ở trong một xã
hội thuộc bộ tộc Pushtun, nếu một
người đàn bà bị làm
nhục bởi bị tấn công do một
người ở bộ tộc khác,
bộ tộc của người đàn
bà ấy có quyền đòi hỏi
sự trả thù.
Trong xã hội Pushtun ý
muốn bảo vệ đàn bà đã
thành tựu theo truyền thống có
sự giới hạn, tới một
mức độ lớn hơn hay nhỏ
hơn, để họ có nhiều phương
cách tốt nhất để giới
hạn sự tiếp xúc với đàn
ông ngoài gia đình hay cộng đồng
làng xóm và, nếu họ có những
sự tiếp xúc, nó phải được
tiến hành trên căn bản những
luật lệ được giải thích
rõ ràng. Sự giới hạn của
phụ nữ đối với thế
giới bên ngoài được
gọi cái tên là cấm cung.
Ở vùng trung tâm
và phía Bắc A phú hãn, có
những truyền thống khác chỉ
dẫn về sự đi lại của phụ
nữ, với những ảnh hưởng
mạnh từ vùng Trung Á, từ
đó có những thành phần
dân số đã di trú. Những
người đàn bà Thổ rất
hạn chế trong sự đi lại. Sự
di chuyển của phụ nữ của những
sắc dân Hazara, Uzbek và Tajik cũng bị
giới hạn, nhưng không đến
mức độ khắt khe như trong xã
hội Pushtun. Những người đàn
bà du mục là một ngoại lệ quan
trọng đối với quy tắc thông
thường. Trong xã hội du mục, chuyện
đàn bà di chuyển là chuyện
trong thể tránh được và
không phải bị cấm kỵ nghiêm ngặt
trong chuyện tiếp xúc với những
người lạ, chuyện này được
nền văn hóa Pushtunwali và nhiều
nền văn hóa phụ khác cho phép.
Trong toàn nước A
phú hãn, cả đàn ông và
đàn bà đều bận những
quần áo truyền thống theo những
kiểu được coi là thích hợp
với sự đứng đắn.
Ðàn bà thường bận áo
dài shalwar kameez , và thêm vào đó
có thể mặc áo chùng từ
đầu đến chân burqa, còn biết
đến với cái tên áo
chadri, vốn là một cái áo che khắp
người, từ đầu đến
chân, luôn cả mặt, hay choàng một
lớp vải mềm bao quanh thân thể
và che luôn tóc. Ở xã hội
thôn quê truyền thống, áo chùng
hiếm khi thấy đàn bà mặc vì
nó làm vướng víu công
việc đồng áng mà đàn
bà làm ngoài đồng hay chăm
sóc súc vật. Quần áo bắt
nguồn từ thành thị, được
vẽ kiểu để làm cho tất cả
đàn bà trước công chúng
được bình đẳng và
giữ cho đàn bà khỏi bị
đàn ông khác dòm ngó. Tuy
nhiên vì có vài làng mạc dần
biến thành thành thị và phát
triển những khu mua bán, phụ nữ
ở những làng xa xôi hẻo
lánh cảm thấy mình sẽ là
người sành điệu khi bận áo
chùng burqa. Chuyện dùng áo chùng
ngày càng nhiều ở thôn quê
trong khi phụ nữ thành thị đi
theo sự hấp dẫn của y phục Tây
phương. Áo chùng burqa trở nên
thông thường hơn ở những
tỉnh miền Nam, tuy nhiên ít được
phổ biến hơn ở miền Bắc.
Theo truyền thống đàn
ông thường bận áo dài vạt
trước ngắn có tên shalwar kameez
và một hình thức gì đó
che đầu, tùy từng vùng. Ở
một số vùng, người ta mong đợi
đàn ông phải để râu.
Ở vài vùng ở A phú hãn,
chuyện để tóc dài là chuyện
tục lệ, trong khi ở những vùng
khác để tóc ngắn là chuyện
bình thường. Quần áo Tây
phương được một thiểu số
bận trong một thời gian ngắn trong lịch
sử.
Những cải cách của
vua Amanullah làm khó chịu những ý
kiến bảo thủ bằng một số cải
cách nhằm nâng cao vị trí của
phụ nữ thay đổi những tục
lệ có liên quan đến giới
tính. Ông ngăn cấm chuyện cưới
hỏi trẻ con, chuyển quy định của
những vấn đề gia đình
từ phía tăng lữ sang viên
chức nhà nước, cấm chuyện
lấy nhiều vợ của công chức,
cho phép đàn bà bỏ khăn choàng
mặt và đòi hỏi đàn ông
sống hay thăm viếng Kabul phải mặc
quần áo Tây phương, trong đó
có chuyện đội mũ Âu châu.
Năm 1928 có chừng một trăm người
đàn bà được hướng
dẫn bởi hoàng hậu xuất hiện
làm một số chuyện trước
công chúng mà không mang khăn choàng.
Những luật lệ của Amanullah bị ngưng
lại ngay khi Bacha-e-Saqqao và phe Ulema sau này
chiếm quyền. Dưới chế độ
của người kế vị Bacha—Saqqao có
ra một luật căn cứ trên sự
diễn dịch luật Shari’a, trong đó đàn
bà không được đi bầu
– đây là một thứ quyền
mà họ không thích thú gì, dù
bất kỳ trong trường hợp
nào.
Không phải đợi
đến khi Daoud trở thành thủ
tướng năm 1953 thì những
bước khởi đầu tiếp
theo mới được thực hành
để nâng cao vị trí của phụ
nữ. Năm 1957, những nữ ca
sĩ và những người trình
diễn được nghe thấy trên
Ðài phát thanh Kabul. Năm sau, chính
phủ gửi một đại biểu phụ
nữ đến Liên Hiệp Quốc
ở New York. Ðồng thời, đàn
bà được thuê làm việc
như những chiêu đãi viên
và thư ký ở hãng hàng
không quốc gia và được tháo
khăn choàng mặt. Năm 1959, Daoud lập
lại sự cải cách lúc đầu
của Amanullah bằng cách nói vợ
và con gái của những viên chức
chánh quyền kỳ cựu xuất hiện
trước công chúng trong những
ngày kỷ niệm độc lập mà
không mang khăn choàng mặt. Khi phe Ulema chống
đối, ông thách thức họ
đi tìm những chứng cớ
không cãi được nằm trong
luật Shari’a để hợp lý hóa
chuyện mang khăn che mặt. Họ không thể
làm được chuyện ông thách
thức nhưng mở một chiến dịch
ồn ào để chống lại ông,
họ bày tỏ nỗi lo sợ rằng
sự hiện diện ngày càng tăng
của những cố vấn Liên xô
sẽ làm hại đạo Hồi. Tuy nhiên
Daoud, với một quân đội đằng
sau ông, có thể đứng vững
trên đất.
Ông được giúp
đỡ bởi những phong trào
trí thức toàn cầu của thập
niên 1960, vốn thách thức lối
suy nghĩ đương thời và thành
công trong chuyện tạo áp lực ở
vài nơi để phụ nữ được
có quyền và tự do nhiều hơn.
Một số lớn nữ sinh ngày
càng tăng được hưởng
chế độ giáo dục cấp hai hay
cao hơn nữa và chuyện này đã
làm khiêu khích phe Ulema, vốn là
phe cho rằng sự mở rộng chuyện
giáo dục không truyền thống sẽ
xói mòn đạo đức của
người trẻ và làm hại những
giá trị xã hội cổ truyền. Họ
dẫn chứng sự hợp lý
của ý thức hệä từ công
trình của lý thuyết gia Abdul Ala Mauduli
người Pakistan, ông này luôn cho
rằng đàn bà phải che mặt hoàn
toàn khi rời nhà, và đàn
ông đàn bà phải tách rời
nhau. Sự hiện diện của đám
hippie Tây phương ở A phú hãn
trong thời gian này đã làm
tăng thêm sự lo âu về những
gì mà họ coi là những tiêu
chuẩn đạo đức ngày càng
xuống dốc thảm hại.
Chính phủ thành lập
bởi Cộng Hòa Dân Chủ Nhân
Dân A phú hãn sau cuộc đảo chính
vào tháng Tư 1978, đã ban hânh
những tiến trình cải cách cụ
thể thêm nữa bằng cách ban hành
chuyện giáo dục phụ nữ khắp
nước với cố gắng chống
lại nạn mù chữ quá cao. Tuy nhiên,
sự cải cách ban đầu đã
gặp phải sự chống đối từ
những lãnh tụ truyền thống trong
những khu thôn quê, và đây
cũng là một yếu tố chính trong
sự ra đời của chuyện chống
lại chế độ Dân Chủ Nhân
Dân và từ đó khiêu khích
sự xâm lăng của Liên xô.
Có sự quan tâm đặc biệt về
chuyện con gái sẽ bị dạy trên
căn bản một hệ thống giá trị
xa lạ, và chuyện này đã được
làm, ïhơn là từ những
lời chỉ bảo có tính tôn
giáo từ những người
đàn bà già trong những làng.
Chuyện dẹp đi những trưởng
lão Hồi giáo ra khỏi hệ thống
giáo dục cũng dấy lên sự
báo động từ những người
lãnh đạo tôn giáo và truyền
thống. Sự chống đối được
xây dựng bởi bảy đảng
kháng chiến Mujahidin, đặc biệt là
những đảng Hồi giáo. Những
đảng này coi sự bảo vệ phụ
nữ là hàng đầu trong những
mục tiêu của họ và gieo vào đầu
những người Hồi giáo truyền
thống như Maududi cần phải tăng cùng
thêm vị trí ý thức hệ của
họ.
Nhiều người trong
số sáu triệu người tỵ nạn
chạy tới Pakistan hay Iran, đó là
kết quả của cuộc đảo chính
đảng Nhân Dân Dân Chủ PDPA và
là hậu quả của cuộc xâm lăng
của Liên Xô, những người
tỵ nạn nầy sợ con gái của
họ sẽ bị ảnh hưởng bởi
một ý thức hệ phàm tục,
nỗi sợ này phù hợp với
tuyên ngôn của nhóm thánh chiến
Hồi giáo Jihad, và đó là
lý do chính mà họ phải rời
A phú hãn. ( Nhiều năm sau, những
người ở thành thị rời
A phú hãn sau sự sụp đổ
của chính phủ Najibullah vào tháng
Tư 1992 và sự ra đời của
chính phủ kháng chiến Mujahidin, với
sự e ngại rằng con gái của họ
sẽ phải tuân theo một thứ luật
lệ khe khắt hơn diễn giải từ
đạo Hồi.)
Do đó cuộc kháng
chiến chống Liên xô xâm lược
được coi là một cuộc kháng
cự lại cả những ảnh hưởng
của Tây phương và xã hội.
Hệ thống của chủ nghĩa xã hội
được coi là có khả năng
làm hại đạo Hồi vì bản
chất thế tục của nó. Xã hội
Tây phương cũng được
nhìn với một cái nhìn tương
tự, một phần vì sự phân
biệt được vạch ra giữa
nhà nước và tôn giáo,
với tôn giáo được
giao cho một môi trường phạm vi riêng,
và một phần vì xã hội Tây
phương được quần chúng
A phú hãn coi như là suy đồi.
Vì cả hai lý do như thế nên có
sự lo sợ rằng đàn bà
sẽ bỏ đi những giá trị
Hồi giáo tốt đẹp và sẽ
làm những hành vi trái đạo
đức xấu xa.
Thái độ này tạo
ra một sự hoang mang trong dân chúng đối
với những cơ quan thiện nguyện
Tây phương. ( Một sự tương
đồng có thể nhìn thấy ở
đây với lịch sử lúc
đầu của đạo Hồi, đi chiếm
những khu vực mới, và những
người đi chinh phục theo Hồi giáo
cảm thấy họ tùy thuộc vào những
người Thiên chúa giáo để
điều động chính quyền, tạo
thêm những sự bàn cãi cho
rằng liệu những người Thiên
chúa giáo này có làm hỏng
giá trị của những phong trào
mà họ đang tìm cách phổ biến.)
Có sự lo sợ rằng nếu những
văn phòng tiếp xúc với những
phụ nữ A phú hãn,cho dù là
với tư cách của người
nhận phẩm vật cứu trợ hay với
tư cách nhân viên làm việc, thì
những người đàn bà
ấy sẽ bị hư hỏng. Những
người đàn bà Tây phương
làm việc cho những văn phòng
thiện nguyện phải cẩn thận trong chuyện
ăn mặc sao cho đúng cách và
họ cũng thường bận chiếc
áo dài truyền thống shalwar kameez và
một khăn quàng đầu. Những
văn phòng có khuynh hướng dùng
những người không phải là
phụ nữ A phú hãn trong ban điều
hành để làm việc với
phụ nữ A phú hãn trong văn phòng
hay những người nhận đồ
cứu trợ để làm giảm
bớt vấn đề rắc rối.
Trong một vài phương
diện, những đảng Mujahidin dùng
sự có mặt của nhửng văn
phòng thiện nguyện để củng cố
những vị trí của chính họ.
Bằng cách tố cáo những văn
phòng như là một mối đe dọa
đến Hồi giáo và đến
xã hội A phú hãn, qua những
ảnh hưởng tha hóa mà họ
đem đến cho phụ nữ A phú
hãn, họ đã làm cho những
văn phòng có một sự quan trọng
điển hình trước mắt công
chúng. Cho nên khi có một người
lãnh đạo Hồi giáo ban bố một
bài giảng ở trong một hay nhiều
trại tỵ nạn và báo cáo một
tin đồn rằng có một văn phòng
ngoại quốc đã đổi đạo
một người đàn bà A phú
hãn từ Hồi giáo sang Thiên
chúa giáo, ông ta coi như lôi kéo
một sự tấn công từ một
đám đông vào tất cả
những tòa nhà thuộc về cơ
quan thiện nguyện ấy và chúng bị
đốt tan tành thành tro bụi.
Trong những năm đầu
sau khi Liên xô rút quân, nhửng
văn phòng thiện nguyện thường
nhận được những lời
chửi bới thường xuyên
từ những đảng Hồi giáo
và từ những phong trào ngoại
vi đạo Hồi, và chuyện những
người đàn bà A phú hãn
làm việc cho những văn phòng
này nhận được những
lời đe dọa là chuyện thường
tình. Nhiều người phải bỏ
việc vì những lời đe dọa
ấy. Một số tiếp tục làm, hoặc
là vì bất chấp sự sợ
hãi hay vì họ cần phải làm
để duy trì đời sống gia
đình.
Những cuộc tranh luận
xảy ra trên đất nước A
phú hãn đã có tiếng vọng
lan tới Iran. Ở đó, khi Ayatollah
Khomeini lên nắm quyền, có nhiều
cuộc tranh luận về chuyện có nên
bắt buộc đàn bà phải bận
áo chùng che kín hay không hay là
cho phép họ bận áo quần rộng
và mang khăn choàng đầu. Chuyện
phải bận áo chùng kín không
phải bắt buộc. Ưu tiên dành cho
sự giáo dục đàn bà cũng
dấy lên sự tranh luận, dù vào
lúc cuối, một dự luật dành
nhiềáu quyền lợi cho đàn
bà được thông qua. Có nhiều
tranh cãi về chuyện có nên cho đàn
bà làm việc đã đưa đến
kết quả là họ có thể làm
việc nếu có sự cho phép của
chồng.
Ở đây cũng
là điều lợi ích để
nói tới vị trí của ý
thức hệ Huynh Ðệ Hồi Giáo,
Muhammad Ghazali, đã nhìn thấy sự
ảnh hưởng rõ ràng của nhóm
Huynh Ðệ đối với phong trào
Hồi giáo ở A phú hãn trước
sự xâm lăng của Liên xô.
Trong cuốn sách " Sự bắt đầu
khôn ngoan của chúng ta " (Our Beginning in Wisdom),
ông đề nghị chuyện cấm những
gì được coi như quần áo
khêu gợi hay sự phô bày ở
đàn bà và những sự
hiện diện của đàn bà không
có người kèm theo ở những
cuộc hội họp ngoài trời. Ông
thiên về chuyện giáo dục cho đàn
bà để bồi đắp cho vai trò
được chỉ định của họ
là nuôi dưỡng trẻ con.
Ở những nơi khác
trong thế giới Hồi giáo, có
nhiều cách diễn giải kinh Qur’an về
cách đàn bà phải ăn bận
như thế nào và chuyện họ sinh
hoạt trong xã hội ra sao. Có nhiều
sự tương phản mạnh mẽ, chẳng
hạn như ở Saudi Arabia, nơi người
phụ nữ trùm khăn che kín và
không được lái xe, và nhiều
nơi ở Trung Ðông, nơi mà
phụ nữ có quyền đóng
một vai trò tương đối đầy
đủ trong phạm vi xã hội, so với
Tây phương. Có nhiều sự tương
phản giống nhau ở trong những
nước giữa những cộng
đồng thành thị và thôn quê
và giữa những ý thức
hệ Hồi giáo truyền thống và
những người chọn một tư
thế ôn hòa và cấp tiến hơn.
Trong thế giới Hồi giáo đã
có một khuynh hướng mới
dành cho những phụ nữ Hồi
giáo mang một loại khăn trùm đầu,
trong giống như cái khăn trùm đầu
của ma-sơ đạo Thiên chúa,và
một áo choàng dài, để chứng
minh sự trung thành của họ đối
với đạo Hồi truyền thống.
Ở Algeria, những người Hồi
giáo truyền thống săm soi những
phụ nữ không tuân theo những
luật dành cho áo quần.
Có sự phản ứng
không kém của những phụ nữ
A phú hãn về vai trò phụ nữ
trong xã hội A phú hãn và trong thế
giới Hồi giáo, bao gồm nhiều
quan điểm từ nhóm Hồi giáo
truyền thống đến vị trí thế
tục. Chẳng hạn, Hiệp Hội Phụ Nữ
Cách Mạng A phú hãn chọn thế
trung dung trong khi đề cao rằng đàn
bà phải đóng một vai trò đầy
đủ trong đời sống chính
trị của quốc gia và có nhiều
phương tiện để học hành, huấn
luyệnvà làm việc như đàn
ông, trong khi vẫn ở trong khung cảnh
Hồi giáo. Tổ chức này ước
mong đàn bà tuân theo một hình
thức ăn mặc lịch sự thích
hợp và không đòi hỏi nhất
định phải bận áo chùng Burqa.
Cuộc tranh luận về chuyện
đàn bà phải hành xử và
tham gia vào xã hội như thế nào
đã kéo dài rất lâu và
nó có thể là nguyên nhân của
nhiều sự cãi cọ nhiều hơn
bất kỳ vấn đề nào khác
kể từ đầu thế kỷ hai
mươi. Khi phe Taliban chiếm quyền ở
Kandahar vào tháng Mười 1994, họ
coi như chọn một vị trí ở trong
cuộc thảo luận đã diễn ra trước
đây.
Vốn đa số là người
Pushtun và mang bản chất nông dân,
họ chịu sự ảnh hưởng không
thể tránh bởi quy tắc danh dự
diễn tả trong luật của Pushtun, vốn
quyết định người đàn
bà phải sống cấm cung và được
bảo vệ từ thế giới bên
ngoài. Viên thống đốc Taliban của
tỉnh Herat trình bày vị trí của
họ rất rõ ràng, trong một cuộc
phỏng vấn ngày 8 tháng 10 với
một phóng viên của Ðài Tiếng
Nói Cộng Hòa Hồi Giáo Iran, phần
ngoại vụ, đặt ở Tehran, và
được truyền thanh ở Pashto
như sau:
Ðây là một vấn
đề danh dự của A phú hãn
cho nên chúng ta phải giữ những
người đàn bà của chúng
ta ở nhà… Luật Shari’a đã chỉ
rõ cách xử sự của mỗi
người như thế nào. Tôi muốn
nói rằng luật Shari’a cho phép một
người đàn bà đi khám
bệnh với một bác sĩ đàn
ông khi bà ta bệnh. Cốt lõi của
vấn đề là không có nước
nào cho đàn bà những quyền
mà chúng ta đã cho họ. Chúng
ta đã cho đàn bà những
quyền mà Thượng đế và
người mang thông điệp của
ngài đã loan truyền, đó là
họ nên ở trong nhà và thâu
lượm chỉ thị tôn giáo ở
chỗ kín đáo.
Phe Taliban cũng bị ảnh
hưởng nhiều bởi vị trí
chọn lựa trong Ðảng Harakat của phe
kháng chiến Mujahidin và những người
trong phe Ulema và những người
lãnh đạo Hồi giáo trong làng
mạc, họ chính là những người
đã có những hành động
hậu tập chống lại chính phủ Amanullah
trong những năm đầu thế kỷ
hai mươi. Ở nhiều mặt, đương
nhiên họ tìm kiếm sự trở
về của tình trạng vốn tồn tại
trước thập niên 1960. Cho nên, khi
cấm đàn bà làm việc, Taliban
nghĩ rằng họ đang giải phóng
xã hội khỏi những gì mà
họ coi là những ảnh hưởng
suy đồi lan tràn khắp nơi do kết
quả của những cải cách của
Daoud, cuộc đảo chánh Chính Phủ
Dân Chủ Nhân Dân PDPA và mười
bốn năm dưới những chính
quyền tay sai cho Liên xô, giai đoạn
cai trị của những đảng phái
Hồi giáo và sự hiện diện
của văn phòng phương Tây.
Sự ý thức về
những phát triển trong A phú hãn
trong thế kỷ hai mươi cũng có
thể ảnh hưởng nhiều đến
thái độ của Taliban đối với
chuyện giáo dục phụ nữ. Giáo
dục thường được dùng
trắng trợn như là một phương
tiện để truyền bá những
ý thức hệ đặc biệt, bắt
đầu với những nỗ lực
của vua Amanullah nhằm hiện đại hóa
A phú hãn thông qua hệ thống giáo
dục. Daoud, Ðảng Dân Chủ Nhân
Dân và những đảng phái
Hồi giáo của phe kháng chiến Mujahidin
đều theo hướng đi của vua
Amanullah. Saudi Arabia ( qua quỹ dành cho những
viện giáo dục), những đảng
phái Hồi giáo ở Pakistan và
một số những phong trào chính
trị trong vùng này đã name lấy
tất cả cơ hội tạo ra bởi
sự xung đột hầu đẩy mạnh
những ý thức hệ của họ
thông qua những viện giáo dục và
những viện tế bần.
Có sự e ngại rằng
những cô con gái sẽ hư hỏng
bởi bất cứ thứ gì
ngoài sự giáo dục Hồi giáo
thuần túy, phù hợp với
sự diễn dịch của Taliban về đạo
Hồi, và một mơ ước tất
nhiên là tạo ra một sự chú
ý dành riêng cho những gì được
coi như vai trò quan trọng của họ trong
chuyện nuôi dưỡng thế hệ
những người Hồi tinh khiết
kế tiếp.
Có những thành phần
trong thế giới Hồi giáo chống
đối phe Taliban vì những lý
do chính trị và chiến lược
đã nắm lấy cơ hội tạo
ra bởi những sự phản ứng
quốc tế đối với chính
sách phân biệt giới tính của
Taliban để hóa giải sự phê
bình của quần chúng đối với
họ. Vào ngày 2 tháng Mười
một đại diện của Ðảng Jamaat-i-Islami
của Pakistan, vốn đóng một vai trò
quan trọng trong chuyện ủng hộ những
đảng Hồi giáo trong phe Mujahidin, đã
đưa ra một lời kêu gọi trong
đó ông cho rằng chuyện những
chỉ thị của Taliban ngăn cấm đàn
bà không cho đi học và đi làm,
bắt đàn bà phải che mặt và
bắt đàn ông để râu sẽ
làm cho Hồi giáo có một bộ
mặt tiêu cực. Ông nói là
không có sự hợp tình hợp
lý nào trong luật Hồi giáo ứng
dụng vào những biện pháp được
công bố bởi Taliban, và thêm
rằng niềm tin Hồi giáo là coi chuyện
giáo dục phụ nữ là chuyện
bắt buộc và đàn bà phải
được cho phép đi làm việc,
cho tới khi nào họ vẫn còn
tuân theo cách ăn mặc và cách
cư xử của Hồi giáo. Quan điểm
xác định trên của phe Jamaat-i-Islami
có liên quan đến quyền lợi,
đã đóng vai trò quan trọng
do Maududi chỉ huy trong sự hình thành
của đảng Jamaat-i-islami của ông. Những
phong trào tôn giáo nhỏ hơn ở
Pakistan cũng bày tỏ những quan điểm
tương tự và chỉ ra rằng con
gái và con trai có thể được
giáo dục ở những trường
biệt lập nhưng phải có đồng
đều những nguồn tài trợ.
Những chính sách
của Taliban đã tạo ra những sự
tiến thoái lưỡng nan đặc
biệt cho những văn phòng Tây phương
và cộng đồng quốc tế, là
những người phản ứng
một cách không tránh né với
họ từ quan điểm Tây phương
cũng như trên căn bản của Hiến
Chương Quốc Tế Nhân Quyền. Vì
xã hội Tây phương là một
xã hội tương đối cá nhân,
mỗi cá nhân, đàn bà hay đàn
ông, thường sẽ tìm kiếm
sự toàn vẹn trên căn bản
những sự chọn lựa của đời
sống cá nhân. Ðối với
nhiều người, những lựa
chọn trong đời đó liên
hệ đến những chọn lựa
nghề nghiệp. Những chọn lựa
trong đời cũng bao gồm sự
quyết định có nên hay không
có con và, nếu có, thì có
bao nhiêu con. Những áp lực xã
hội vẫn còn ảnh hưởng đến
những sự lựa chọn này
ở Tây phương như chuyện đàn
bà được mong đợi là
có con, nhưng ngày càng có những
người đàn bà không có
ý định có đứa con đầu
tiên cho đến khi họ vào lứa
tuổi ba mươi và sẽ thường
giới hạn số con mà họ có.
Áp lực có con hay không có con
không có liên quan đến chuyện
phục vụ cho văn hóa hay tôn giáo
tồn tại mãi mãi, với sự
ngoại lệ có thể có của Ðạo
Thiên Chúa, hay sự tiến bộ của
một quốc gia, dù nó có liên
quan đến những tình trạng xã
hội. Những thái độ tiếp
cận như thế đối với đời
đã tồn tại và hiện diện
trên nước A phú hãn, nhưng
chỉ có ở giới thiểu số
trong một thời gian ngắn, và nhiều
người trong họ đã rời
nước đi định cư ở
phương Tây. Tuy nhiên, những người
quan sát Tây phương thường
gắn bó chặt chẽ với nhóm
thiểu số này một cách tự
nhiên.
Có điều cũng quan
trọng khi công nhận xã hội Tây
phương không được đồng
nhất như xã hội A phú hãn. Có
những sự khác biệt giữa
những phụ nữ ở A phú
hãn căn cứ trên chủng tộc,
tôn giáo, lợi tức cùng
sự sắp xếp cư trú ở
thành thị hay thôn quê, cũng như
ở Tây phương thì cũng có
những sự khác biệt rõ ràng
căn cứ trên quốc tịch, đẳng
cấp xã hội, tuổi tác và nơi
sống. Cá tính của cá nhân
cũng đóng một vai trò quan trọng
trong xã hội ở cả A phú hãn
lẫn Tây phương. Do đó bất
cứ cuộc đối thoại nào cũng
dựa vào sự kính trọng những
giá trị mà những người
tham dự trong cuộc đối thoại trung
thành và tôn trọng. Ðối với
người Tây phương, sự chối
bỏ chính mình là điều không
hợp lý cho nên họ cũng chấp
nhận chuyện họ bị khước từ
bởi những giá trị xã hội
ở A phú hãn. Người A phú
hãn có quyền sống một lối
sống văn hóa khép kín và
người Tây phương sống ở
A phú hãn có bổn phận phải
tôn trọng phong tục và giá trị
xã hội địa phương ấy. Khó
khăn mọc lên khi một hay hai đảng
đối thoại về những gì
được coi là vị thế cực
đoan hay cứng ngắt. Rồi có
người hỏi rằng tại sao lại
chọn vị thế ấy, và những
nguyên nhân lịch sử có dính
dáng đến vị thế đó,
và liệu có thêm những yếu
tố cọng vào với câu hỏi
đơn giản về những giá
trị.
Trong hoàn cảnh nói trên,
thật là hữu ích để phản
ánh trên sự chấp nhận sự
khác biệt, nơi có những nhóm
tạo thành sự khác biệt đó
để phân biệt họ với những
nhóm khác. Lịch sử cận đại
của A phú hãn đã nhìn tiến
trình này như một sự hình thành
trọng yếu nhưng cũng có nhiều
tình cảnh giống tương tự ở
trong lịch sử Âu châu và Hoa kỳ.
Xã hội Tây phương hiện nay cũng
được đánh giá bởi
những sự liên hệ giữa
nhóm căn cứ trên những
con đường dẫn tới quyền
lực cũng như trên những quyền
lợi và bản diện khác nhau. Khi
những nhóm cảm thấy bị đe
dọa, thái họ của họ có khuynh
hướng cứng rắn thêm và
họ tìm kiếm sự định nghĩa
rõ ràng hơn về những phương
diện bản sắc của họ để
làm cho họ khác biệt với những
nhóm khác. Khi mà bản diện quốc
gia hay tôn giáo dính líu vào, đàn
bà thường được coi như
một sự quan trọng có tính cách
biểu tượng trong lúc nhận thức
lại bản diện này. Ðây là
một tính chất đặc biệt của
những xã hội Hồi giáo khi ở
dưới sự đe dọa ấy, như
ở tại Algeria, và ở những
cộng đồng Hồi giáo ở
những thành thị Ââu châu.
Tuy nhiên, cũng còn có thêm sự
đe dọa lan tràn sinh ra bởi truyền
thông đại chúng, vốn giới
thiệu cái hình ảnh của nền văn
hóa Tây phương vào những
nhà khắp thế giới và thường
được coi là âm thầm phá
hoại những nền văn hóa khác.
A phú hãn là một
trong những nơi còn lại trên thế
giới mà truyền thông Tây phương
chưa thâm nhập vào được
với mức độ đáng
kể. Sự cứng rắn của chính
sách phân biệt giới tính có
thể coi như một cố gắng để
cách biệt với thế giới
bên ngoài, và để bảo vệ
phụ nữ A phú hãn khỏi bị
tiêm nhiễm bởi những ảnh
hưởng để rồi có thể
làm yếu đi xã hội từ
bên trong. Người đàn bà
trong thế giới Hồi giáo nói
chung là bị khinh miệt, bị cách ly
như một thứ nô lệ thời
Trung cổ và chuyện chế độTaliban
sụp đổ sau khi bị Mỹ và các
lực lượng kháng chiến tấn
công đã hé mở một cánh
cửa mới cho phụ nữ A phú
hãn. Phụ nữ A phú hãn chắc
chắn rồi đây cũng có những
quyền tự do tối thiểu như nước
Hồi giáo Iran. Không thể tiếp tục
dùng những ý thức hệ cứng
ngắc để trói buộc người
đàn bà Hồi giáo A phú hãn
mãi được nữa. Họ cũng
là con người như đàn ông
và xứng đáng để hưởng
những quyền tự do căn bản
nhất của con người. Cánh cửa
A phú hãn đã mở toang ra với
thế giới và thế giới
khép kín của đàn bà Hồi
giáo A phú hãn chắc chắn sẽ
được những tia sáng le lói
của mặt trời chiếu vào khăn
che mặt âm u và đem lại quyền
làm người căn bản cho những
người đàn bà bất hạnh
này.
Lawndale, một sáng xuân
hồng tạnh ráo đầu xuân 2001
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
|