TÁC  GIẢ
SÁCH
ÐÃ XUẤT BẢN
CÁC BÀI
VIẾT MỚI
GÓP Ý

QUÂN TALIBAN: ÐỘI QUÂN CỦA THƯỢNG ÐẾ

Dường như phe Taliban khởi đầu như một nhóm nhỏ thông thường ở Kandahar, có lẽ vào đầu năm 1994. Những thành viên của nó là những sinh viên tôn giáo, nghe nói là họ ïcảm thấy phẫn nộ với hành vi của những người lãnh đạo kháng chiến Mujahidin đấu tranh giành quyền lực trong thành phố và những thành viên này quyết định hành động để chấm dứt những gì họ coi là những hành vi tham nhũng, lấy đạo Hồi như là một lý do hợp tình hợp lý cho sự can thiệp của họ.

Làm thế nào để họ đi từ một nhóm nhỏ để trở thành một lực lượng chính thì chuyện này chưa được rõ ràng. Tuy nhiên, rất có thể là họ được đánh giá bởi những thành phần nằm ngoài A phú hãn như là một phương tiện mạnh mẽ có khả năng để thi hành những quyền lợi khác nhau của những thành phần này, và chính những thành phần này quyết định cung cấp hỗ trợ cho nhóm Taliban là một chuyện làm xứng đáng và đáng giá. Bản chất và mức độ viện trợ mà Taliban nhận từ bên ngoài đã là một chuyện gây nhiều sự phỏng đoán. Tất cả những nước Pakistan, Hoa Kỳ, và Saudi Arabia đều có dính líu vào.

Có điều rõ ràng là họ có nhiều thuận lợi từ sự đóng góp hết lòng của những người trẻ, từ những vùng thôn quê và từ những trại tỵ nạn nằm ở biên giới Pakistan, đến để gia nhập lúc tổ chức Taliban đi ngang qua vùng phía Nam A phú hãn. Họ còn có thể kêu gọi sự đóng góp một số lượng lớn vũ khí, dù vũ khí này do những lực lượng rút lui bỏ lại hay tìm thấy trong quá trình tước bỏ vũ khí của dân chúng.

Ý thức hệ sâu thẳm của phong trào Taliban cũng là một lý do nữa để bàn thảo. Ít có sự nghi ngờ về chuyện những tổ chức Hồi giáo madrasahs ở những trại tỵ nạn, nơi mà đạo Hồi được dạy trên căn bản nhắc nhở kinh Qur’an ( Koran), đã là mảnh đất tươi tốt cho chuyện lôi kéo những người theo. Cũng có thể là những viện mồ côi hoạt động trong những trại tỵ nạn với sự giúp đỡ tiền bạc từ Saudi Arabia, những quốc gia vùng Vịnh và những đảng phái kháng chiến Mujahidin, sẽ tạo ra những người ủng hộ gia nhập nhiệt thành đạo Hồi cấp tiến, một số trong bọn họ sẽ đi theo tiếng gọi cầm súng hấp dẫn của phe Taliban. Có điều không rõ ràng là vai trò của những Ðảng Hồi giáo ở Pakistan trong chuyện huấn luyện những người trẻ ở những trung tâm giáo dục khác nhau, và những sự đóng góp mà những trung tâm này đã làm về chuyện phát triển của phong trào Taliban. Cũng có điều không rõ tương tự là câu hỏi những lực lượng Taliban nhận được sự huấn luyện quân sự bằng cách nào.

Có những cuộc thảo luận về chuyện liệu phong trào này chủ yếu có phải là của sắc dân Pushtun, vì chứng cớ là có đa số ủng hộ viên của phong trào là người Pushtun. Ðiều này dẫn đến sự suy đoán là phong trào được sự ủng hộ trong cố gắng tái khẳng định vai trò thống trị của phe Pushtun ở A phú hãn vốn tồn tại trước chiến tranh và bị thử thách bởi sự kiểm soát Kabul dưới sự lãnh đạo của hai lãnh tụ thuộc sắc dân Tajik là Rabbani và Masoud. Phe Taliban luôn khẳng định là phong trào mở ra cho tất cả các sắc dân ở A phú hãn và rõ ràng là có những người theo phong trào Taliban thật sự không phải là người Pushtun. Tuy nhiên phong trào chủ yếu là những người theo phái Si ( sunny) trong sự diễn giải của Hồi giáo và do đó không thể nhận nhóm Shi’a ở vùng trung tâm A phú hãn hay phe nhóm Ismailis ở vùng Ðông-Bắc.

Vị lãnh tụ tối cao của Taliban là Mullah Muhammad Omar, người được coi như một giáo chủ cầm đầu đức tin ( Amir Al-Mu’minin) . Ông cầm đầu nhóm Hồi giáo ở Kandahar, và coi như có quyền lực chỉ huy trên những hội đồng Hồi giáo khác trong những khu vực do Taliban kiểm soát. Vùng Herat có một thống đốc nhưng Kabul được kiểm soát bởi một hội đồng Hồi giáo gồm sáu người, dưới sự lãnh đạo của một chủ tịch hội đồng Hồi giáo, và bởi một số bộ trưởng trong chính quyền. Quyền quyết định trong tổ chức Taliban nghe nói là được tiến hành do sự đồng ý nhất trí. Cho nên có khuynh hướng ngày càng có thêm thành phần bảo thủ chiếm ưu thế.

Mullah Omar là một người Pustun từ vùng phía Tây-Nam A phú hãn. Trước đây ông là một thành viên của một trong những đảng truyền thống kháng chiến Mujahidin, đó là Ðảng Hisb-e-Islami do Younis Khalis nắm quyền lãnh đạo. Ông có tiếng là một người chỉ huy tinh khôn, và bị mất một mắt trong cuộc chiến chống lực lượng Liên xô. Ông ấy chừng trên ba mươi tuổi. Chung quanh con người Omar có nhiều huyền thoại, vì ông hiếm khi thấy xuất hiện trước công chúng hay thăm viếng những nhóm quyền cao chức trọng. Ông chỉ tiếp xúc hạn chế với một vài cộng sự viên thân tín, bao gồm những thống đốc mà ông chỉ định, và nghe đồn ông dùng hết thì giờ để chăm sóc cho sự tổ chức chiến dịch quân sự của Taliban. Ông thường để cho những người dưới lo những công việc có liên quan đến thế giới bên ngoài, trong đó có những chuyện gặp gỡ những nguyên thủ quốc gia các quốc gia và đặc sứ đặc biệt của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Nghe nói là ông là người ngoan đạo và có cuộc sống đơn giản.

Phong trào Taliban tùy thuộc nhiều vào sự cam kết liên tục của những chiến sĩ thành viên của nó, nhiều người trong họ đã chứng kiến nhiều bạn bè hy sinh vì mục tiêu cao cả. Có sự quan tâm đặc biệt được thi hành về chuyện tránh đi quá xa về hướng cấp tiến, thành thị hay những giá trị Tây phương, để cho những chiến sĩ cảm thấy không bị phản bội và rút lại sự hỗ trợ mà trong đó sự phát động trong toàn cả nước tùy thuộc vào. 

Phe Taliban có ít kinh nghiệm trong chuyện điều hành một chính quyền nhà nước, và họ cũng không coi chuyện này là ưu tiên khi họ chiếm chính quyền. Họ đã chứng tỏ sự độc đoán nhiều trong cuộc vận động quân sự, về sự xóa bỏ tham nhũng và chuyện thành đạt về luật lệ và chỉ thị. Sự duy trì và tăng cường những cấu trúc chính quyền là những điều quan tâm thứ yếu.

Sự chiếm lấy thủ đô Kabul đã mang lại một thực thể mới, trong đó Bộ Cải Tiến Ðạo Ðức và Ngăn Ngừa Tội Aùc được nổi bật đề cao. Những người giám sát tôn giáo này đã đóng một vai trò nâng cao những chính sách của Taliban đối với cư dân thành thị. Tuy nhiên, những hành động của họ thường đối nghịch với những chính sách của những thành phần lãnh đạo Taliban khác, do đó dẫn đến sự ngờ vực và lời đồn đoán cho rằng có thể có một cuộc tranh chấp giữa phe cứng rắn và phe tương đối ôn hòa trong phong trào.

Phe Taliban dường như không từ đâu đi ra khi lần đầu tiên họ được thế giới chú ý đến vào tháng Mười 1994. Sự tới nơi của họ trong hình ảnh quân sự A phú hãn trùng hợp với bước khởi đầu của chính quyền Pakistan gửi một chuyến công-voa trao đổi đi ngang nước A phú hãn, xuyên qua hai tỉnh Kandahar và Herat , để tới Turkmenistan. Lúc đoàn xe công-voa này đến A phú hãn, đi từ phía Bắc đến Quetta, nó bị một nhóm võ trang tấn công. Lập tức có một nhóm khác đến cứu và chống lại nhóm tấn công. Họ là những người của Taliban.

Sau khi cho phép đoàn công-voa tiếp tục đi, phe Taliban tiến đến Kandahar và tiếp thu thành phố này mà hầu như không gặp phải sự chống đối nào cả. Kandahar chứng kiến tình hình trong thành phố gần như hỗn loạn trong suốt hai năm trước, khi một số những nhóm kháng chiến Mujahidin chiến đấu để mong kiểm soát tình hình. Phe Taliban đã có thể bắt một số lãnh tụ của vài phe, giết một vài nhóm và cầm tù một số khác. Khi chiếm được thành phố, họ kêu gọi dân cư nên đầu hàng vũ khí ở nơi được chỉ định và cộng tác với nhóm cầm quyền mới hầu mang lại sự an bình cho khu vực. Mọi người ngoan ngoãn tuân lệnh. 

Phe Taliban cùng lúc tuyên bố nhiệm vụ của họ là giải phóng người A phú hãn khỏi sự lãnh đạo tham nhũng hiện tại và xây dựng một xã hội theo Hồi giáo. Họ ban hành những chỉ thị trong đó họ yêu cầu đàn ông phải quấn khăn, để râu, tóc cắt ngắn, còn đàn bà phải mang áo chùng trùm từ đầu đến chân, ngay cả khuôn mặt. Ðàn ông được khuyến cáo mạnh mẽ là nên cầu nguyện năm lần một ngày, tốt nhất ở trong nhà thờ. Ðàn bà được dạy dỗ bổn phận của họ là nuôi dưỡng thế hệ mới của Hồi giáo. Cho đến lúc cuối thì họ bị cấm làm việc. Có điều phải nói rõ ở đây là sự giáo dục của những em gái phải chờ đợi cho đến khi có một chương trình giáo dục Hồi giáo thích hợp do những học giả tôn giáo giảng dạy, và như thế là tiến trình này chỉ có thể bắt đầu khi phe Taliban cầm quyền khắp nước. Những chỉ thị khác cấm âm nhạc, những trò chơi tất cả bất cứ biểu hiện gì của con người và thú vật. Ðể có thể thi hành những luật cấm này, truyền hình và những băng chỉ được trưng bày như một hình thức biểu tượng ở những nơi công cộng.

Thành công đáng nhớ của phe Taliban trong chuyện đem lại sự yên ổn ở Kandahar đã mang lại cho họ sự ủng hộ của dân chúng và chuyện này, dựa trên sự dị đoan cọng thêm với khăn đầu màu trắng cùng với sự nhiệt tình và tinh túy rõ ràng, đã mang lại cho họ một cái gì gần giống như hào quang siêu đẳng. Khi họ di chuyển về phía Tây từ Kandahar, uy tín của họ đã đi tới trước họ và họ có thể dễ dàng dọn sạch những nhóm vũ trang và băng đảng trên đường đi. Lúc họ chiếm những vị trí họ chiếm lấy những vũ khí để lại, nhiều thứ bỏ lại trong vội vã, và khuyến khích mọi người gia nhập cùng với những chiến sĩ của họ.

Trong suốt mùa Ðông của năm 1994 –1995, phe Taliban có thể lập lại sự thành công trên nhiều lần và vào tháng hai, 1995, họ đã nằm trên những vị trí đồi núi nhìn xuống ngoại ô phái Nam Kabul, và họ coi như đã chiếm gần một nửa nước A phú hãn. Họ còn tổ chức để bảo toàn sự di tản nhanh chóng của vùng Charasyab, tới phía Nam của thủ đô, cũng từ đây Gulbuđin Hekmatya đã bắn rốc-kết vào thành phố trong vòng ba năm. Khi họ tiến đến Kabul từ hướng Tây – Nam, họ chiếm vùng ngoại ô phía Tây theo lời mời của nhóm Shi’a, thuộc Ðảng Hisb-e-Wahdat, nhóm này sợ nhất cái viễn cảnh bị quân Masoud tấn công. Trong những cuộc hành quân quân sự, người lãnh đạo Shi’a là Abdul Ali Mazari bị phe Taliban bắt và ông đã chết vài ngày sau đó, lý do ông qua đời hiện nay vẫn chưa rõ.

Tuy nhiên sự chiếm đóng vùng phía Tây Kabul chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Những quân lính chính phủ tổng phản công và đã có thể lấy lại khu vực bị quân Taliban chiếm trong vòng một tháng. Họ đã có thể đẩy quân Taliban ra khỏi khu vực Charasyab tới những vị trí ngoài tầm xa bắn tới Kabul. Sau đó tình trạng gần như bế tắc giữa những lực lượng của Taliban và phía chính phủ, ít nhất là trong mối liên hệ với Kabul, cho đến tháng Chín 1996. Trong vòng 18 tháng dính líu vào sự tranh chấp, thủ đô đã trải qua một thời gian yên bình cho tới khi phe Taliban có thể lấy lại Charasyab và cũng chiếm luôn những vị trí mới vào tháng Mười 1995. Những chuyện này khiến họ phải bắn rốc-kết vào thành phố trong khi quân của Hekmatyar cùng một lúc ngăn cản những chuyến xe công-voa thương mại và thiện nguyện đến từ hướng Ðông. Con đường phía Bắc tới Mazar-i-Sharif cũng còn bị đóng, do sự tranh chấp lâu dài giữa chính quyền và phe Dostam.

Mùa Ðông của năm 1995 – 1996 là một mùa Ðông đặc biệt khắc nghiệt với Kabul trong khi sự thiếu hụt thực phẩm và nhiên liệu cùng sự lạm phát tăng đã hành ha tận tìnhï đám dân nghèo đói. Những cơ quan thiện nguyện dẹp bỏ những bảng cấm để mang đồ tiếp tế vào thủ đô, nhưng đây không phải là một chuyện dễ dàng. Hình ảnh ghi nhớ sự khó khăn trong những ngày này đã là một yếu tố tạo nên sự dễ dãi cho dân chúng khi phe Taliban cuối cùng chiếm Kabul vào tháng Chín 1996.

Trong khi phe Taliban nỗ lực chiếm Kabul thì cũng có những hoạt động quân sự gay go ác liệt xảy ra ở vùng phía Tây A phú hãn. Thành phố Herat như đã nói ở chương trước nằm dưới sự kiểm soát của Ismail Khan, vốn là một đồng minh của chính phủ. Ông này chiếm thành phố Herat vào tháng Tư 1992, khi chính quyền được Liên xô hỗ trợ sụp đổ, và ngày càng tăng thêm sự cai trị và ảnh hưởng đến những tỉnh miền Tây như Farah và Nimroz về hướng Nam, và Badghis về hướng Tây- Bắc. Khi quân Taliban đi về hướng Tây từ Kandahar, họ tìm cách chiếm nguyên con đường đi qua Herat tới biên giới Turkmenistan. Tuy nhiên đường tiến quân của họ bị chặn ở Shindand, chừng 120 km về hướng Nam Herat có một căn cứ không quân quân sự lớn. Những lực lượng của Ismail Khan gài mìn tất cả những vùng lân cận đi tới căn cứ không quân này với nỗ lực chặn lại hướng tiến quân của Taliban. Họ đã thành công trong chuyện ngăn chặn cuộc tấn công, nhưng phải chiến đấu với làn sóng người của phe Taliban quyết tử bằng cách tiến lên trên bãi mìn để chết cho cho mục tiêu cao cả. Ðây là một khía cạnh của chiến thuật Taliban đã tô đậm thêm hình ảnh không thể đánh bại được đã xảy ra vào thời gian trước họ.

Những tháng sau, có sự dậm chân giữa những lực lượng Taliban và Ismail tại Delaram, ở biên giới của những tỉnh Farah và Helmand. Rồi vào tháng tám 1995, lực lượng của Ismail Khan bắt đầu tấn công vào Kandahar. Ðầu tiên họ di chuyển với tốc độ thần tốc và gây ra sự de dọa nghiêm trọng cho thành phố. Tuy nhiên họ bị phe Taliban chận lại ở Girishk, chừng 120 km phía Tây Kandahar,và rồi bị đẩy lui. Phe Taliban tiếp tục đánh và chỉ trong vòng một thời gian ngắn, đã chiếm được Shindand và tiến vào Herat mà không cần giao tranh gì cả, họ vào nơi này ngày 5 tháng 9 năm 1995. Như có sự đồng ý giữa phe Taliban và Dostam, những lực lượng của phe sau giúp về vấn đề không quân trong chuyện tiến tới.

Có nhiều sự phỏng đoán là tại sao Ismail Khan bỏ cuộc dễ dàng trước phe Taliban và giao tỉnh Herat cho họ. Những lời đồn đãi vào lúc bấy giờ không có căn cứ cho rằng có những sự khác biệt giữa Ismail Khan và chính phủ trung ương ở Kabul, điều này đã đưa đến sự từ nhiệm hay cách chức của Ismail Khan từ chức vụ thống đốc.Một lời đồn đãi khác nói Ismail Khan muốn tránh sự đổ vỡ cho thành phố mà ông đã bỏ ra ba năm để xây dựng và ông không cảm thấy có thể trông nhờ vào sự hỗ trợ của cư dân, vốn là những người đã hưởng một thời gian yên bình, nên họ miễn cưỡng cầm súng một lần nữa. Sự thật lúc bấy giờ Taliban đã có tiếng tốt khi chiếm cứ những khu vực mới – họ không dính líu và chuyện cướp bóc, hôi của, hiếp dâm hay phá hủy vô lý- những chuyện này đã làm tăng thêm sự khả tín trong chuyện đánh giá cho rằng sự chống cự của dân cư, dù ở mức độ nào, cũng không thể trông cậy vào được.

Khi phe Taliban chiếm Herat họ ra sắc lệnh về cách bận quần áo và cách hành sử dành cho dân chúng, cũng như họ từng làm ở Kandahar, họ ra lệnh đóng cửa những trường dành cho nữ sinh, và cấm đàn bà làm việc. Có một bức tượng của con ngựa ở trung tâm thành phố bị phá bỏ vì nó biểu hiện cho một hình thức súc vật. Ðiều này bị coi như trái với đạo Hồi. Phe Taliban lùng sục từng nhà để tước vũ khí của dân cư trong tỉnh.

Những luật lệ liên quan đến sự tham dự của đàn bà vào giáo dục và việc làm đã có những tác động lớn hơn khi họ ban hành ở Kandahar. Ở Kandahar, hạ tầng cơ sở chính quyền đã hoàn toàn sụp đổ khi phe Taliban tiến quân vào và chỉ có ít trường nữ sinh hoạt động. Có rất ít cơ hội cho đàn bà tìm kiếm việc làm ngoài gia đình. Tuy nhiên ở tỉnh Herat năm 1994, có báo cáo cho rằng sĩ số học sinh trong trường bao gồm 21663 nữ sinh và 23347 nam sinh. Ngược lại ở vùng nông thôn có 1940 nữ sinh đến trường so với 74620 nam sinh ( theo son số của quỹ nhi đồng Anh quốc năm 1994). Một số lượng nhà giáo là đàn bà và đó là điều cần thiết để đóng lại nhiều trường nam sinh. Hơn nữa phần lớn dân cư Herat đã sống đời tỵ nạn ở Iran, nơi nữ giới tham dự chuyện học hành là một quyền. Sự cấm con gái đi học, đi theo sau một chương trình giảng dạy mới và thích hợp hơn chưa được thi hành, nên đã gây ra một sự tác động mạnh. 

Sự chiếm đóng thành phố Herat được coi như là một cuộc chiếm đóng quân sự, không phải chỉ vì những giới hạn ngăn cấm phụ nữ đi học và đi làm mà còn bởi vì về phương diện văn hóa và ngôn ngữ vì tuyệt đại đa số người Pushtun và nhóm Taliban ở thôn quê rất khác với những người Heratis nói tiếng Ba-tư, với những truyền thống thẩm mỹ và không mang thành kiến nào.

Trong những tháng đầu dưới luật lệ Taliban ở Herat, có một số đông người sắp hàng dài ngoài văn phòng lãnh sự Iran để xin visa vào Iran. Nhiều người trong họ là những người có giáo dục và nghề nghiệp cao, một số trong bọn họ đã từng làm việc với nhiều cơ quan công quyền khác nhau. Rõ ràng có sự xuống dốc trong chuyện xây dựng khu vực, do đó giảm thiểu cơ hội dành cho mọi người làm những việc lao động hàng ngày và rút ngắn tiến trình về Iran. Chương trình hồi hương từ Iran đến vùng phía tây A phú hãn bị đứng sững lại. 

Những văn phòng thiện nguyện cố gắng tìm kiếm sự đối thoại với phe Taliban ở Herat như họ đã từng làm ở Kandahar. Ở thành phố sau, nó đã chứng minh là có thể xin phép nhà nước để cho đàn bà đi làm việc trong những khu vực lo về sức khỏe và sự cho phép này được gia hạn thêm khi phe Taliban chiếm Herat. Tuy thế những cơ quan ở Herat không thể đạt được bất cứ sự cải tiến nào về chuyện cấm đàn bà làm việc ở những chức vụ không có liên quan đến vấn đề y tế sức khỏe hay đảo ngược lại quyết định đóng cửa trường của nữ sinh. 

Sau khi chiếm được Herat, phe Taliban thâu lượm được vài kết quả cho đến một năm sau thì họ bất thình lình tiến vào Jalalabad vào ngày 11 tháng 9 năm 1996. Một lần nữa họ chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt khi những cấp lãnh đạo kháng chiến Mujahidin vốn giải quyết xong chuyện Nangarhar, đã chọn quyết định rời bỏ mà không đánh trận nào. Phe Taliban đã làm ngạc nhiên những người quan sát khi họ quyết tâm vượt qua sự cố thủ khó xuyên qua nổi ở vùng Sarobi Gorge. Sau một vài ngày đánh nhau ác liệt ở vùng phụ cận phía Ðông thủ đô Kabul, họ tiến vào thủ đô vào ngày 26 tháng 9 mà hầu như không có phát súng nổ nào. Tin chấn động lan ra khắp toàn thế giới khi cựu Tổng thống Najibullah và người em của ông bị tóm cổ từ một văn phòng Liên Hiệp Quốc chỉ sau vài giờ quân Taliban vào thành phố, và treo cổ hai anh em ở một nơi công cộng. Cũng không rõ là cuộc treo cổ này được thi hành theo lệnh cấp trên của Taliban hay được tiến hành một cách tự nhiên bởi những người cuồng nhiệt, hoặc có thể vì một số khác có những thù oán cũ cần phải trả, nên chụp lấy cơ hội của tình thế để trả mối hận thù cũ. Có tin đồn là sự tàn bạo này dấy lên từ mối thù địch từ trong Ðảng Dân Chủ Nhân Dân PDPA. Nhiều người khác nghi rằng vì Najibullah đã từng nắm chức vụ trưởng ban mật vụ nhiều năm và đây chính là nguyên nhân đưa đến cái chết thảm khốc cho ông ta và người em.

Trong hoàn cảnh đó dân chúng ở Kabul lo sợ về chuyện vây hãm kéo dài thêm ở thủ đô. Nhiều người đã bán cả những của cải căn bản của mình và đã đến tình trạng gần như tuyệt vọng. Do đó khi quân Taliban tiến vào, một sự khuây khỏa và hy vọng rằng cuối cùng sẽ có hòa bình và triển vọng sẽ có sự tiến bộ trong nền kinh tế địa phương. Có thể Rabbani và Masoud ý thức được quan điểm này của quần chúng, và có thể đây là một yếu tố tạo thành quyết định không chiến đấu để giữ từng tấc đất cuối cùng ở Kabul. Hào quang của truyền thống không thể đánh bại của phe Taliban có thể tạo ra thêm những sự lo ngại rằng những lực lượng chính phủ sẽ không dám đương đầu với họ và như thế là họ mất đi một cơ hội để chứng tỏ họ là đoàn quân vô địch. Phe chính phủ cũng có thể tính toán chuyện chống lại phe Taliban sẽ lớn mạnh khi họ chiếm thủ đô, và Masoud đã nhiều lần nói thẳng lên quan điểm này trong một số lời phát biểu sau đó.

Tuy nhiên phe Taliban không chờ đợi để củng cố sự chiếm đóng Kabul mà di chuyển ngay về hướng Bắc. Trong vòng vài ngày họ đã đối diện với quân của Dostam tại đỉnh của ngọn núi Salang Pass, vốn chia cắt miền Bắc từ miền Nam A phú hãn, và những lực lượng của Masoud ở cửa ngõ thung lũng Panjshir, vốn là nơi chứng kiến cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Liên xô. Phe Taliban tìm cách thương thảo một hiệp ước hòa bình với Dostam. Dostam và Masoud trả lời bằng cách bỏ qua sự thù nghịch bấy lâu giữa hai bên và kết hợp thành một liên minh quân sự; lực lượng kết hợp của họ lúc đó đã có thể đẩy phe Taliban về lại những vị trí phía Bắc Kabul, và nơi đây coi như có một sự bế tắc trồi lên. 

Phe Taliban phản ứng trước liên minh bằng cách mở một mặt trận mới ở vùng Tây-Bắc A phú hãn. Vào tháng Mười 1996, họ chiếm tỉnh Badghis, nơi mà Dostam đã chiếm từ tháng Chín 1995 theo sau sự chiếm cứ tỉnh Herat của Taliban. Những trận đánh lớn diễn ra sau đó giữa những lực lượng của Dostam và của Taliban xảy ra ở vùng phía Ðông Badghis. Dân số vùng Herat nghe nói là e sợ sự chiến thắng của Dostam bởi vì thành tích xấu hôi của và hiếp dâm của những lực lượng Dostam ngay khi lúc đầu trận đánh.

Ở Kabul, phe Taliban tiến hành chuyện ban bố những luật lệ giống như họ đã từng làm ở Kandahar và Herat. Tuy thế, dần dần rõ ràng là luật lệ được thi hành nghiêm khắc hơn theo những yêu cầu của Taliban, đặc biệt là chuyện đàn ông phải cầu nguyện tại những nhà nguyện địa phương hơn là tự làm một mình và có những quy chế ăn mặc dành cho đàn ông và đàn bà, bao gồm chuyện để râu dài, quấn khăn dành cho đàn ông và áo trùm cả người dành cho đàn bà, những quy chế này phải được tuân theo một cách triệt để.

Kinh tế thủ đô Kabul cũng bị xuống dốc như tỉnh Heart. Ðiều này xảy ra mặc dù có chuyện đổi chác cởi mở hơn lần vây Kabul kỳ trước ( được làm giảm nhẹ bởi Hekmatyar khi ông nắm chính quyền vài tuần lễ trước khi Taliban chiếm lấy), và ngược lại với nền kinh tế lan tràn của tỉnh Kandahar trong thời kỳ hậu Taliban. Ðối với trường hợp Kabul, đây có thể là kết quả của nhiều công chức chính quyền bất thình lình bị mất việc hay được trả lương bất thường khi Taliban nắm quyền kiểm soát. Sự ra đi của một ít những thành phần giàu có còn sót lại khi chính quyền sụp đổ đã làm tăng nhanh thêm tiến trình suy sụp kinh tế. Chắc chắn là thị trường tiền tệ

äKabul, vốn là dấu chỉ tốt của sự lành mạnh kinh tế, đã đáp ứng một cách tích cực tới sự chiếm chính quyền của Taliban trong vòng tuần lễ đầu hay sau đó, nhưng rồi đồng tiền afghani mất giá trở lại. Có những vấn đề sau đó như chuyện Dostam tự in giấy nhà băng và chính quyền bị truất phế tung ra những tờ in mới tràn ngập thị trường, gây ra nạn lạm phát tăng cao và dẫn đến sự gần như sụp đổ của đồng tiền afghani.

Cho dù vì những lý do kinh tế hay sự sợ hãi chuyện xâu xé tiếp tục, có một số lượng lớn người từ Jalalabad và Kabul đi ra ngoài khi Taliban tiến vào Kabul. Mười ngàn người đi tới Pakistan từ Jalalabad vào tháng Chín 1996, nhiều người đi chỉ vì sự dội bom trực tiếp do những lực lượng chính phủ gây ra. Một số 50000 người khác chạy tới Pakistan từ Kabul từ tháng Mười đến tháng Mười Hai 1996. Thực phẩm được cung cấp cho những người mới tới ở trại Nasirbagh nằm gần Peshawar. Ở Herat cũng vậy, sự ra đi làm yếu thêm chính quyền và giảm bớt số lượng người có nghề nghiệp có khả năng điều hành một chính quyền.

Trong những tháng đầu tiên sau khi chiếm được Kabul, phe Taliban biểu lộ ý hướng muốn giơ tay ra bắt tay với thế giới bên ngoài. Thật là khó cho những tổ chức bên ngoài và những phái đoàn ngoại giao hiểu rõ bản chất của tiến trình quyết định ở bên trong. Có sự mâu thuẫn trong những công bố công khai, điều đó gây ra sự quan tâm và nghi ngờ. Nhiều người lính trên đường phố dường như hành động mà không nghe theo mệnh lệnh từ cấp trên gì cả. 

Cũng có bằng chứng rằng phe Taliban xem dân cư Kabul khác với những người sống ở những vùng chiếm được trước đây. Nhiều người có gốc gác ở truyền thống dân giả và tự nhiên có cảm giác nhìn thấy Kabul như là một nơi tham nhũng và suy đồi. Thái độ của những người lính đôi lúc phản ảnh thái độ này, để rồi gây ra một số biến cố mà Uûy Ban Ân Xá Quốc Tế phải lên án. Phe lãnh đạo Taliban tỏ ý hối tiếc về những chuyện làm quá đáng trước đây và Mullah Omar, người lãnh đạo Taliban ở Kandahar, đưa ra lời kêu gọi trên tiếng nói truyền thanh của người Shari’a nhắn với những quân lính của ông phải đối xử tốt với dân cư Kabul. 

Cũng có thêm những sự căng thẳng dấy lên từ những lời tuyên bố của Ahmed Shah Masoud rằng ông mong dân chúng sẽ nổi dậy chống lại Taliban. Quân Taliban nghe nói tiến hành chuyện lùng sục từng nhà để tìm những người có cảm tình với Masoud,và đã có một số lớn người bị bắt . Vì thiếu hồ sơ ghi lại con số những người bị bắt giữ ở đâu nên có sự lo ngoại về những trường hợp một số người bị mất tích được ghi nhận.

Ba tháng sau khi chiếm Kabul, phe Taliban cố gắng thêm một nỗ lực nữa là tiến về hướng Bắc. Lần này họ thành công trong việc dàn xếp những vấn đề giữa Kabul và Salang Pass, nhưng họ tránh né những vấn đề họ phải đối diện với những cuộc nổi dậy trong cố gắng trước đây của họ bằng cách di tản khu vực. Trên một trăm ngàn người được gửi đến Kabul như những người tỵ nạn trong khi phe Taliban củng cố vị trí của họ.

Năm 1997, số người đi vào Kabul từ miền Bắc lên tới 200000. Những người này phải tự túc cánh sinh, họ ở với họ hàng và tim kiếm cách mưu sinh. Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi xin cho những người này được trở về nhà của họ ở phía Tây thủ đô, nhưng bị từ khước. Phe Taliban hoàn toàn chú tâm vào mục đích chiếm cho được cả nước và không muốn có một sự rủi ro nào.

Những tháng đầu năm 1997 được coi là bế tắc trong khi trận chiến vẫn tiếp tục trên một số mặt trận. Về phía Nam của Salng Pass, phe Hisb-e-Wahdat ngăn trở nỗ lực của phe Taliban muốn vượt qua Shibar Pass để về hướng Tây rồi hướng Bắc qua một con đường khác để tới Salang Pass đang bị khoá kín. Những lực lượng của Masoud lúc nào cũng làm cho quân Taliban đầu tắt mặt tối lo lắng đêm ngày chung quanh thung lũng Panjshir, nhất là về hướng Ðông. Thương vong của hai bên nghe nói rất cao. Về phía Tây-Bắc A phú hãn, ở địa điểm Ghormach của khu Badghis, trận chiến nghe nói càng khốc liệt hơn khi quân Taliban tấn công vào vùng đất của Dostam. Phe Taliban phải đối phó với những vấn đề trong khu vực mà họ vừa chiếm như chuyện đối phó với lãnh tụ Haji Qadir, một lãnh tụ vừa bị phế truất khỏi Hội đồng Hồi giáo vùng Nangarhar, ông này tổ chức một phong trào xâm nhập từ Pakistan vào những vùng Kumar và Nangarhar cho đến khi ông bị Pakistan trục xuất vào ngày 14 tháng Năm.

Sự bế tắc này bất thình lình vỡ một cách ly kỳ khi một vị tướng của Dostam là Abdul Malik, vốn là người kiểm soát tỉnh Faryab nằm ngay hướng Ðông của mặt trận Badghis, tuyên bố là vào ngày 19 tháng Năm ông sẽ đào ngũ theo phe Taliban. Ông đi tới Mazar và chiếm nó vào ngày 24 tháng Năm mà không cần nổ một tiếng súng và chuyện này đã đẩy Dostam phải chạy tới Uzbekistan. Ngày hôm sau ông cho phép phe Taliban vào thành phố.

Lãnh đạo phe Taliban phản ứng nhanh chóng tới chiến thắng bằng cách gửi nhiều cấp lãnh đạo tới Mazar. Quốc gia đầu tiên công bố họ quyết định công nhận Taliban là chính phủ hợp pháp của A phú hãn chính là Pakistan, sau đó họ gửi ngay một đại sứ đến. Saudi Arabia và Liên Hiệp Cộïng Hòa Ả rập ( United Arab Emirates) nhanh chóng theo gương Pakistan để công nhận chế độ Taliban. 

Cũng có những bản tường thuật từ những tỉnh Kunduz, Baghlan, và Takhar, về hướng cực Ðông, của những người chỉ huy đầu quân theo phe Taliban. Dường như không có gì có thể cản lại sự tiến công về phía trước hay không ai có thể ngăn trở tham vọng chiếm toàn nước của họ. Có thêm bằng chứng về chuyện này khi nói đến sự đào ngũ của một cấp lãnh đạo đối lập được công bố, lần này là một cấp lãnh đạo thuộc phe Masoud và là người đang kiểm soát Salang Pass. Vào ngày 27 tháng Năm, ông ta cho phép phe Taliban tiến lên đỉnh và rồi cho băng qua đường hầm Salang. Sau khi những quân lính đi qua, đường hầm được phá nổ luôn để từ nay không còn những chướng ngại chống lại phe Taliban nữa.

Có những tin đồn giật gân tức thì về sự phản bội và tin đồn này càng tăng thêm sự khả tín khi cùng lúc đó dân cư vùng Mazar chạy theo phe Taliban. Tuy nhiên những biến cố xảy ra ở Mazar cũng chưa đủ yếu tố để xem đó là một vụ phản bội. Chuyện bắt đầu với việc phe Taliban cố gắng tước vũ khí dân cư và với sự phản ứng đặc biệt của họ đối với phe kháng chiến do phe Hisb-e-Wahdat tổ chức trong thành phố. Khi có thêm những quân Taliban đổ tới thêm để trừng phạt nhóm kháng chiến này thì bị những người dân được xúi giục đứng lên và toàn thể dân chúng dường như muốn nổi dậy một cách nhanh chóng. Quân Taliban rải ra khắp thành phố với cố gắng muốn kiểm soát tình hình nhưng họ bị cắt thành từng phần nhỏ. Thật khó mà có được một cái nhìn rõ ràng toàn cảnh về chuyện có bao nhiêu quân Taliban bị giết trong ngày đó, nhưng những chứng nhân cho biết có một khoảng thời gian vô chính phủ và giết nhau xảy ra.

Phe Taliban sửng sốt nhưng những lực lượng của họ ở phía Bắc ở sườn phía Bắc Salang Pass vẫn tiến tới không bị trở ngại và tính chiếm những vùng Khenjan và Doshi của phe Ismaili và thành phố kỹ nghệ Pul-i- Khumri. Rồi họ kết hợp với số quân Taliban rơi rớt còn lại chạy ra từ Mazar vào một điểm nằm giữa Mazar và Pul-i-Khumri. Dần dần vào những ngày sau họ bị những lực lượng của Abdul Malik đẩy lui từ phía Tây, bị quân Ismaili đánh từ phía Nam và quân Masoud đánh từ phía Ðông cho đến khi Pul-i-Khumri được tái chiếm vào ngày 11 tháng Sáu. Số quân Taliban còn lại chạy về hướng Bắc để tới vùng đất chào đón họ, vùng này là vùng Baghlan và Kunduz được người Pushtun xây dựng lâu đời. Trong lúc đó, lực lượng của Masoud thành công trong việc chiếm Jabal-us-Seraj, ở cửa ngõ phía Nam của Salang Pass, từ phe Taliban ngày 29 tháng Năm. Phe Taliban phản ứng nhanh chóng với một cuộc phản công dữ dội, nhưng không thể làm gì hơn là chỉ làm tiêu hao chút đỉnh những lực lượng chống đối.

Tất cả chìm vào im lặng khi phe Taliban kiểm điểm nghiên cứu lại tình hình. Có những trận đánh nhỏ với phe Hisb-e-Wahdat và có những bản báo cáo mù mờ từ Kunduz và Badghis liên quan đến những thành quả thâu lượm được của quân đội kháng chiến. Bốn thành phần của Liên Minh Miền Bắc, đó là lực lượng của những phe Abdul Malik, Masoud, Hisb-e-Wahdat và phe Ismailis, đã cho thấy có hình ảnh hợp tác như là một thực the quân sự và chính trị hữu hiệu, dù luật lệ và tình trạng chỉ thị ở những đường phố thành thị còn chưa được tốt lắm. 

Rồi vào ngày 20 tháng Bảy, Liên Minh kháng chiến thành công trong chuyện chiếm giữ Charikar và một căn cứ không quân chiến lược của Bagram, về phía Bắc Kabul. Thêm nhiều thành quả được thu lượm cho đến khi phe Taliban tìm cách ngăn chận lực lượng miền Bắc ở 25 km phía Bắc thủ đô, nơi có sự bế tắc kéo dài sau đó. Những thành công quân sư của phe kháng chiếnï đã làm cho phe Taliban lo âu trước viễn cảnh nổi dậy trong thủ đô và họ tăng cường chuyện bắt bớ những người tình nghi là có cảm tình với phe kháng chiến. Dân Tajik nói tiếng Ba-tư và dân Hazaras, vốn chiếm đa số trong tổng số dân cư của Kabul, trở nên những mục tiêu không thể bỏ qua trong chuyện bắt giam này. Có những chuyện bắt dân Hazaras tương tự nghe đồn là đã xảyra ở Herat, để đối phó với những báo cáo về những hoạt động quân sự của lực lượng Iran về phía bên kia biên giới. Có những lời tố cáo công khai của phe Taliban, theo sau sự sụp đổ tán loạn ở Mazar, phe Taliban tố cáo Iran đã cung cấp sự hỗ trợ cho Liên Minh Miền Bắc, nên từ đó tạo thêm những yếu tố rắc rối về sắc dân và tôn giáo tới cuộc tranh chấp trong lúc người theo phe Shi’a ở Hazaras trong nước A phú hãn nhận thấy họ dính líu vào một cuộc xung đột sâu đậm với phe Taliban. 

Từ đầu tháng Tám 1997, có những tin đồn về sự rạn nứt trong cấp lãnh đạo của Liên Minh Miền Bắc. Vào ngày 8 tháng Chín những lực lượng của Taliban ở Kunduz lợi dụng sự đào ngũ của một cấp lãnh đạo địa phương ở Tashkurgan, vốn nằm trên con đường chính đi từ Mazar tới Pul-I- Khumri, để tổ chức một trận đánh vào phi trường Mazar. Ðiều này trùng hợp với chuyện cơ quan quyền lực ở Mazar sụp đổ khi Abdul Malik ra đi và thành phố trở thành bị chia ra giữa các phe Hisb-e-Wahdat. Jamiat, và thêm hai thành phần nữa trong trại Uzbek, một có dính líu đến Abdul Malik và nhóm kia liên hệ tới người lãnh tụ bị truất phế Rashid Dostam. Tuy nhiên, những lực lượng của phe Hisb-e-Wahdat có vẻ khống chế về mặt quân sự và tiến hành chuyện hôi của ở những văn phòng thiện nguyện, lấy hết sạch sành sanh mọi đồ đạc có trong đó. Khi Dostam bất thình lình xuất hiện ở A phú hãn vào ngày 12 tháng Chín, ông về từ Thổ nhĩ Kỳ, thật không rõ là ông có thể tái kiểm soát tình hình được không nữa. Trong lúc ông tập hợp những lực lượng của mình ở ngoài Mazar, phe Taliban tiến hành bao vây thành phố vào cuối tháng Chín. Tuy nhiên, không hiểu sao những lực lượng của Liên Minh Miền Bắc chống cự lại được những cuộc tấn công của Taliban và đẩy Taliban lui về tận Kunduz trước khi trận chiến bên trong giữa Abdul Malik và Dostam lại bắt đầu. Sự thất bại thêm đã làm cho phe Taliban lo lắng nhiều hơn, và họ siết chặt gọng kềm đối với cư dân ở Kabul và Herat. Ðiều này đã làm tồi tệ thêm sinh hoạt kinh tế và những người bán hàng ngày càng sợ chuyện bán buôn trên những đường phố. 

Phe Taliban ngày càng lớn mạnh thì không khí áp bức càng đè nặng trên người dân A phú hãn và ngày lên cầm quyền, phe Taliban càng tỏ lộ bàn tay sắt đá trong chuyện áp bức và đàn áp dân chúng. Ðàn áp dân chúng trong nhà chưa đủ, phe Taliban cùng với người anh em Al Qaeda còn tìm hung hăng đánh Mỹ trên đất Mỹ với sự đánh sập hai tòa nhà thương mại thế giới bằng phi cơ dân sự do những tên khủng bố đàn em của Bin Laden và Omar hành động ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại New Yorkõ và họ đã nhận lấy hậu quả cay đắng là mất luôn chính quyền và quyền lực khi " con cọp giấy Hoa Kỳ " ra tay trả thù rửa hận.

Lawndale, một đêm đìu hiu gió lạnh giữa tháng 12 - 2001
Trần Viết Ðại Hưng
 

Hosted by www.Geocities.ws

1