KHÁNG
CHIẾN QUÂN MUJAHIDIN
Thời điểm
ra đi của những người theo
đạo Hồi không phải là kinh nghiệm
hàng ngày của đạo Hồi, điều
muốn nói ở đây là Hồi
giáo không phải được diễn
giải như một hình thức văn
hóa mà như là một nhận thức
sâu xa về chính trị. Ðối với
nhiều người, sự trở
về tôn giáo đã đi qua tiến
trình kinh nghiệm chính trị và không
phải là kết quả của niềm tin
tôn giáo. Phe Ulema định nghĩa chính
trị trên căn bản những mối
quan hệ trong xã hội được thiết
lập nên bởi luật lệ; nhà
nước là một phương tiện
để cho công lý có thể hoạt
động trong xã hội Hồi giáo.
Ðạo Hồi, hay cộng đồng Hồi
giáo, đã cung cấp căn bản
cho những suy nghĩ chính trị; chính
trị là phần mở rộng của
luật. Ðối với những người
Hồi giáo, bản chất của xã
hội được coi như quyết định
trước bởi bản chất của
nhà nước.
Cách lý giải này
là sự ích lợi trong đó
nó rút ngắn một cách rõ ràng
phần chia căn bản giữa hai yếu
tố vốn đã được biết
đến như là phong trào kháng
chiến Mujahidin. Nó cũng chỉ ra sự
phức tạp trong một bức tranh mà
xuyên qua những hình ảnh được
lập lại liên tục của những
chiến sĩ A phú hãn bắn đạn
Rốc-kết và nã đạn pháo
từ những đỉnh núi, được
trình bày trong một cách quá đơn
giản thô sơ.
Một yếu tố căn bản
trong khi nhận định phong trào kháng
chiến Mujahidin là ở phạm vi nào
đo bên trong có những đảng
phái được coi như đại
diện nó thực sự là đại
diện thật. Từ đây về sau
phải cần rõ ràng về những
định nghĩa. Tối thiểu người
ta có thể noiù tất cả những
người A phú hãn võ trang chống
lại Ðảng Dân Chủ Nhân Dân
và những lực lượng Liên
xô, những người tự coi
họ là tham gia vào của thánh chiến
của Hồi giáo, hay nói đúng
là là kháng chiến Mujahidin, hoặc
những chiến sĩ trong cuộc thánh
chiến. Những chiến sĩ tìm kiếm
những người lãnh đạo
của họ ở mức độ địa
phương và một số trong họ trở
thành người xuất chúng. Phong
trào kháng chiến cũng hưởng
nhiều lợi lộc vì có sự
đào ngũ đông đảo từ
quân đội Dân Chủ Nhân Dân,
và điều này đãlàm
cho quân lính Liên xô, vốn muốn
cho đám lính Dân Chủ Nhân Dân
chống lại lực lượng kháng
chiến, giờ đây chính Liên
xô phải tham gia vào những trận
đánh một cách trực tiếp.
Nhóm thánh chiến Hồi
giáo Jihad hợp pháp hóa, nói
theo danh từ tôn giáo, một số
lớn dân chúng ra đi với
số lượng lớn tới những
quốc gia Hồi giáo, theo cách đó
A phú hãn đã bị xâm lấn
bởi một lực lượng thế
tục và như thế là ngưng trở
thành quốc gia Hồi giáo. Chuyến
đi của Muhammad từ Mecca đến
Medina vào năm 622 sau Công nguyên trong sự
quấy rầy phiền nhiễu và bị
tấn công vào người, đã
tạo một tiền lệ cần thiết cho
quyền tự do của tôn giáo này.
Tổng cộng có chừng 3.2 triệu người
tỵ nạn tìm đường đi
tới Pakistan, ở đó họ được
cho tạm trú trong những trại dọc
theo chiều dài biên giới, chủ
yếu là ở những tỉnh biên
giới Tây Bắc nhưng cũng có
ở Baluchistan và Punjab. Trong những
trại, họ được phát cho khẩu
phần ăn và được cung cấp
cho những dịch vụ về giáo dục
và y tế. Một số lượng tương
tự là chừng 2.9 triệu người
đi đến Iran. Ở đây họ
hòa nhập rộng rãi vào nền kinh
tế và được hưởng
một nền giáo dục cũng như y tế
căn bản như những người
Iran nghèo; họ cũng còn được
hưởng được quyền trợ
cấp về những nhu cầu cần thiết.
Một số người được
sắp xếp sống trong những trại
dọc theo biên giới, từ đây
họ được hỗ trợ của
chính phủ Iran để vượt qua
biên giới vào A phú hãn hầu
chiến đấu chống lại những
lực lượng Liên xô.
Ðịnh nghĩa của chữ
kháng chiến Mujahidin do đó có nghĩa
bao trùm tất cả những người
đi đến Pakistan và Iran, và dính
líu đến chuyện chiến đấu
ở A phú hãn trên căn bản
những hoạt động xâm nhập từ
hai quốc gia này, cùng với nhiều
người lựa chọn ở lại
A phú hãn trong suốt cuộc chiến,thường
chạy đến chỗ trú ẩn nơi
rừng núi với gia đình
của họ và tổ chức những
cuộc tấn công đột kích từ
đây. Một số người trong
bọn họ có liên hệ đến những
nhóm có tổ chức. Một số
khác hành động tự nhiên
như là một phần của làng và
cộng đồng bộ tộc của họ.
Còn có một số nữa, chủ
yếu là người Tajiks, chạy đến
những thành thị, làm cho dân
số của bộ tộc họ tăng lên
nhiều. Thủ đô Kabul do vậy mà
có một số lượng người
Tajik nói tiếng Ba-tư đông đảo.
Những người lãnh
đạo của những Ðảng Hồi
giáo là những người chạy
tới Pakistan vào giữa thập niên
1970 . Họ đã nhìn thấy cơ hội
do sự thành lập của tổ chức
thánh chiến Hồi giáo Jihad để
nhận vai trò lãnh đạo đối
với phong trào kháng chiến. Sự
thanh trừng của chính phủ Daoud dành
cho những thành viên của họ đã
làm cho họ ở trong tình trạng yếu
và họ dễ dàng đi đến
chuyện đàm phán, thương lượng
bởi chính phủ Pakistan nhắm vào
chuyện làm an ổn những mục tiêu
đặc biệt có lợi cho quyền
lợi của Pakistan. Ðổi lại, khi thương
lượng như thế thì những
người bị Daoud thanh trừng nói
trên được sự hỗ trợ
của Pakistan.
Ðầu tiên khi những
người lãnh đạo phe bị thanh
trừng đến Pakistan, họ được
chào đón nồng nhiệt bởi
Tổng thống lúc đó là Zulfikar
Bhutto. Nghe nói ông tiếp họ trong khi tăng
cường sức mạnh trong tay ông
trong chuyện liên hệ đến vấn
đề nhạy cảm của người
Pushtun, vốn đang bị chính phủ Daoud
của A phú hãn bố ráp gắt
gao. Bhutto cho phép những đảng của
nhóm trên được thiết lập
những văn phòng ở Peshawar và
cũng cung cấp cho họ tiền cần thiết
để tổ chức những cuộc
nổi dậy võ trang bên trong nước
A phú hãn, với hy vọng là những
chuyện này sẽ có tác hại làm
lung lay chế độ Daoud. Tuy nhiên, những
sự bắt bớ và xử tử
xảy ra do những vụ nổi dậy thất
bại đã càng làm cho phong trào
Hồi giáo ngày càng yếu.
Sau khi Bhutto bị Tổng thống
mới của Pakistan là Zia Al-Haq treo cổ,
những Ðảng Hồi giáo nhận
thấy nhà lãnh tụ mới Zia Al-Haq
là một người gây sự
hứng khởi về ý thức
hệ cho Pakistan có nhiều điểm tương
đồng với suy nghĩ của họ
và với suy nghĩ với những
đảng tương tự ở Pakistan,
như Ðảng Jamaat-i –Islami. Zia có một
tham vọng rõ ràng là muốn thiết
lập ở Kabul một chính quyền mà
Pakistan có thể kiểm soát được.
Chiến lược nằm sau kế hoạch
này là điểm chủ yếu của
bộ quốc phòng Pakistan: tạo ra một sức
mạnh chiến lược đối phó
với Ấn độ qua sự hình
thành của một khối Hồi giáo
chạy dài từ Pakistan đến vùng
Trung Á. Tuy nhiên Zia thận trọng khi nghĩ
đến những bộ tộc người
Pushtun, là giống người có truyền
thống đấu tranh anh dũng cho nền
độc lập đã làm cho họ khó
trở thành đồng đội trong
liên minh phòng thủ. Do đó ông
tìm kiếm đồng minh ở những
người A phú hãn có một
căn bản ý thức hệ là sự
chống trả Liên xô xâm lăng,
và những người Hồi giáo
là những ứng viên thích
hợp. Tuy nhiên ông cũng miễn
cưỡng trong chuyện nhanh chóng hỗ
trợ mạnh mẽ. Có những sự
nguy hiểm không thể tránh được
khi tung ra một phong trào mạnh mẽ và
thiếu sự phối hợp trước
khi nó được kiềm chế kiểm
soát.
Quyết định của Hoa
Kỳ cung cấp chuyến viện trợ ngầm
đầu tiên năm 1979 và rồi viện
trợ công khai ở mức độ
lớn từ 1986 trở đi, dùng
Pakistan như một cầu nối, đã
làm cho những Ðảng Hồi giáo
từ vị thế yếu kém trở
thành một đường dây chính
chuyển tải vũ khí và những
nguồn viện trợ khác cho những
quân kháng chiến Mujahidin đang chiến
đấu trong nước A phú hãn.
Tuy nhiên có sự chống đối
đáng kể về vai trò lãnh đạo
được chỉ định từ
những người lãnh đạo
đương nhiên xuất hiện ra từ
bên trong A phú hãn. Nhiều tổ chức
mới đứng lên và kiến
nghị yêu cầu chính phủ Pakistan cung
cấp thiết bị quân sự. Chính
phủ đáp ứng vào năm 1980
rằng họ chỉ công nhận bảy trong
những đảng hay nhóm đang tồn
tại, và tất cả những ai tìm
kiếm thiết bị quân sự phải
liên hệ với một trong bảy đảng
hay nhóm nói trên. Bốn trong những
nhóm kháng chiến Mujahidin thuộc Hồi
giáo, trong đó họ tìm kiếm
để tạo ra một phong trào chính
trị với ý thức hệ căn
bản là sự tái diễn dịch
những điều căn bản của
Hồi giáo. Bốn nhóm khác thường
được coi như những nhóm
truyền thống, trong đó họ thoát
thai từ truyền thống bộ tộc hay
từ những nhóm khác trong A phú
hãn.
Những đảng cùng
những người lãnh đạo
có thể phân loại ra như sau :
* Nhóm Jamiat-Islami, thành lập
năm 1972 từ một nhóm không chính
thức ra đời trong thập niên
1960, là Ðảng Hồi giáo đầu
tiên lập nên ở Kabul. Người
lãnh đạo là Burhannudin Rabbani, vốn
là diễn giả về môn lý thuyết
Hồi giáo tại Ðại học Kabul. Ôâng
chịu ảnh hưởng nhiều bởi
Phong Trào Huynh Ðệ Hồi Giáo ở
Ai cập và khả năng của phong trào
này trong việc lôi kéo đám
đông quần chúng. Ðảng đề
ra mục tiêu tái cấu trúc mọi
hình thái của xã hội theo một
sự diễn giải đặc biệt những
nguyên tắc chính của Ðạo Hồi,
và do đó chú ý đến
chuyện kết hợp với những
hệ thống chính trị, kinh tế, tòa
án, xã hội trong phạm vi Ðạo Hồi.
Tuy nhiên Rabbani quan niệm rằng trong khi tìm
kiếm sự thăng tiến theo chiều
hướng nào đó của Ðạo
Hồi, Ðảng phải tiến hành một
cách thận trọng và phải quý
trọng những niềm tin hiện tại, truyền
thống và những thực hành,
bao gồm sự chú trọng có tính
truyền thống về quyết định
nào cũng phải được đồng
ý nhất trí. Vì thế ông là
người rất ôn hòa và thực
tế, và vốn văn hóa căn bản
cùng sở học vững chắc đã
có những ảnh hưởng quan trọng
đến ông. Những khác biệt
trong Ðảng Jamiat-i- Islami cùng những
chiến thuật đã được
dùng để đạt những mục
tiêu của Ðảng đã dẫn
đến sự phân chia năm 1976 và
đưa đến sự ra đời
của những đảng mới. Rabbani
cảm thấy mạnh mẽ rằng một phong
trào rộng rãi quen thuộc phải được
xây dựng trước khi có những
nỗ lực được thi hành
để tìm kiếm quyền lực.
Những nhóm khác bênh vực
đến nhiều chọn lựa cụ thể
hơn. Rabbani chạy đến Pakistan để
tránh chuyện bị Tổng thống Daoud bắt.
Là người gốc Tajik, về gốc
gác vùng thì ông được
nhận diện là người vùng
Ðông Bắc A phú hãn.
Một nhân vật quyết
định của Ðảng Jamiat-i-Islamic là
Ahmed Shah Masoud, ông gia nhập Ðảng lúc
còn là một sinh viên ngành kỹ
sư của Ðại học Kabul. Ông đóng
một vai trò chính yếu trong thời
gian có sự chiếm đóng của
Liên Xô với vai trò lãnh đạo
những lực lượng kháng
chiến ở thung lũng Panjshir ở
về phía Ðông Bắc Kabul. Ông
cũng tạo nên một chính phủ dân
sự trong khu vực này, dù không
có đầy đủ cơ cấu của
một chính quyền. Sau khi chiếm Kabul vào
tháng Tư năm 1992, ông giữ trách
nhiệm phòng ngự và kiểm soát
thủ đô. Cũng như Rabbani, ông
thuộc sắc dân Tajik.
Hisb-e-Islami ( Hekmatyar) nổi lên
từ một sự phân chia năm 1979
trong Ðảng Jamiat-i -Islami. Người lãnh
đạo là Gulbuđin Hekmatyar, là một
sinh viên ngành kỹ sư tại Ðại
học Kabul trong những năm hình thành
phong trào Hồi giáo, ông ta là người
từ vùng Kunduz ở phía Bắc
A phú hãn. Ông vốn là người
Pushtun, có lẽ là hậu duệ của
giống dân Pushtuns sống ở vùng
miền Bắc A phú hãn vào cuối
thế kỷ trước bởi Abdur-Rahman.
Lúc ở trong Ðảng Hisb-e-Islami ông
theo mô hình tổ chức của Liên
xô, tạo ra một phong trào dựa vào
cấu trúc chi bộ với dãy kim
tự tháp quyền lực. Những
thành viên có năng lực đều
được xem xét cẩn thận và
phải trải qua thời kỳ thử
thách. Ðảng Hekmatyar có vẻ thuần
túy hơn là chịu ảnh hưởng
của ông Rabbani và Ðảng tìm
cách xóa bỏ những phong tục hiện
thời, những thực hành và
những cấu trúc để thay thế
chúng với một cấu trúc mới
và được tổ chức tinh
vi hơn, đặc biệt nhắm tới
chuyện hình thành một nhà nước
Hồi giáo. Ðảng Hekmatyar không có
nhiều căn cứ địa trong A phú
hãn và dựa nhiều vào những
trại tỵ nạn, trong đó có tỉnh
Nangarhar ở phía Ðông , và dựa
vào Kunduz như là nơi để kêu
gọi người tham gia. Ðảng Hisb-e-Islami
( Hekmatyar) có khuynh hướng muốn lôi
kéo đến những người
trẻ cấp tiến có một nền giáo
dục tương đối khá, nhiều
người trong họ hưởng nhiều
lợi ích từ nền giáo dục
kỹ thuật. Nó coi giáo dục như
là một phương tiện quan trọng để
chuyển ý thức hệ của Ðảng
và tiến hành phổ biến đến
một số trường ở Pakistan,
bao gồm những trường dành
cho con gái. Ðảng Hekmatyar chạy trốn
sự thanh trừng của Daoud và chạy
đến Pakistan.
Ðảng Hisb-e-Islami ( Khalis) nổi
lên từ sự vỡ vụn từ
Ðảng Hisb-e-Islami trong năm 1979 sau khi Younis Khalis,
một lãnh đạo bộ tộc từ
tỉnh Paktia có một vốn học Hồi
giáo cấp tiến, và quyết định
để đi theo những chiều hướng
của ông. Khalis được huấn
luyện về môn giáo lý Thần
học ở trường Deoband ở
Delhi, vốn là nơi sinh ra vài thế
hệ của phe Ulema ở A phú hãn.
Những sự chống đối của
ông trên báo chí vào những
cảnh cải cách của Daoud có nghĩa
là ông phải chạy tới Pakistan.
Cung cách lãnh đạo theo đường
hướng gia trưởng bộ tộc,
và những người theo ông
phần lớn dựa vào những
người lãnh đạo tôn giáo
truyền thống và những người
chỉ huy địa phương ở vùng
Tây-Nam A phú hãn. Lãnh tụ Mullah
Omar nghe nói là cũng tự buộc
mình vào Ðảng Hisb-e-Islami( Khalis) trong
thời kỳ kháng chiến chống
sự chiếm đóng của Liên
xô.
Ðảng Ittihad-i-Islami được
thành lập bởi Abdul Raoul Sayyaf, vốn
là một cựu diễn giã từ
Ðại học Kabul và là một người
nói tiếng Ả rập thông thạo, ông
phục vụ với chức vụ chánh
văn phòng cho Rabbani trong những ngày
đầu của phong trào Hồi giáo
ở trường đại học. Ông
bị chế độ do Dân Chủ Nhân
Dân cầm quyền bỏ tù vì những
hoạt động của ông vào trong thời
kỳ 1978 – 1979, ông được thả
một phần do lệnh ân xá theo sau sự
xâm lăng của Liên xô và chạy
đến Pakistan, tại đây ông lập
ra Ðảng Hồi giáo của ông. Ðảng
Ittihad-i-Islami chưa bao giờ có căn
cứ địa nào về mặt địa
dư nào nằm ngoài Kabul và Ðảng
luôn luôn có mối liên hệ vững
chắc với Saudi Arabia, vốn là nước
tiếp tay cung cấp nhiều sự hỗ
trợ. Tuy thế mặc dầu có những
sự tương đồng về ý
thức hệ giữa Ðảng Ittihad-i-
Islami và Ðảng Wahabbis của Saudi Arabia,
Ðảng Ittihad-i-Islami luôn nhấn mạnh
là nó xa rời từ phong trào
này, đây là một phong trào
đã xây dựng được
một sự hiện diện mạnh mẽ đặc
biệt ở Kumar trong vùng phía Ðông
Bắc A phú hãn. Tuy nhiên nó luôn
tỏ ra chống đối kịch liệt thiểu
số nhóm Shi’a ở A phú hãn,
thái độ này coi như lập lại
sự tranh đua của Riyadh ( Ả rập Saudi)
với Tehran ( Iran) về sự được
mọi người biết đến đầu
tiên trong thế giới Hồi giáo.
* Mặt Trận Quốc Gia A phú
Hãn ( The Afghan National Liberation Front ) được
thành lập bởi Sibghatullah Mujadidi năm
1980, là một trong ba Ðảng được
coi là có truyền thống vì không
có ý thức hệ và sức
mạnh của nó nằm trong xã hội
thôn quê của A phú hãn. Mujahidi xuất
thân từ một gia đình thế
gia vọng tộc Pushtun, vốn cầm đầu
một trong những nhánh của chế
độ Sufi Naqshbandi ở vùng phía
nam A phú hãn và có dính líu
liên hệ đến cơ cấu cai trị
của nền cai trị trước đây.
Dù ông sinh trưởng trong truyền
thống bảo thủ và đã là
người ủng hộ mạnh mẽ cho
sự trở lại của vua Zahir Shah, ông
hoạt động năng nổ trong phạm vi
Hồi giáo cấp tiến trong suốt thập
niên 1950 và 1960, thiết lập sự
liên lạc với nhóm Huynh Ðệ
Hồi Giáo ở Ai cập, và bị
Daoud bỏ tù bốn năm rưỡi
vào năm 1959 vì ông phát động
chiến dịch chống lại chuyến viếng
thăm của Khrushchev. Mặt Trận Quốc Gia
A Phú Hãn chưa bao giờ có thể
tạo được sự chú ý
để nhận một phần lớn những
nguồn tiếp liệu quân sự dành
cho kháng chiến.
* Ðảng Harakat-I-Inqilab-Islami
xuất hiện vào năm 1980, dưới
sự lãnh đạo của Nabi Muhammadi,
một học giả Hồi giáo. Sức
mạnh của Ðảng nằm ở phe
Ulema và ở những người
Hồi giáo lãnh đạo làng ( Mullahs)
là những người đã
sớm nổi dậy chống lại Ðảng
Dân Chủ Nhân Dân, cùng chung với
những sinh viên, hay những thành
viên ( talibs) của trường Hồi
giáo ( Madrasah) mà ở đó phe
Ulema giảng dạy. Nó lôi kéo khá
đông người trong năm đầu
tiên bởi vì những gì nó
rao giảng trình bày, nhưng nó không
có khả năng tổ chức để
cung cấp đầy đủ nhu cầu cho
những môn đồ của nó và
nhiều người hướng về
Ðảng Jamiat hay Hisb-e-Islami ( Khalis), vốn được
đánh giá là có đầy
đủ sự ôn hòa và kính
mến truyền thống để hợp
lý hóa lòng trung thành của họ.
Trong những đảng phái, nó có
niềm tin gần gũi nhất tới
tín ngưỡng của phe Taliban. Nó
tự cho mình là không có ý
thức hệ gì và tìm kiếm
sự trở lại của chuyện áp
dụng khắt khe của luật Hồi giáo
và địa vị ưu tiên của luật
Shari’a, mà không theo hướng Hồi
giáo. Nó cũng thiết lập được
một phong trào có tổ chức, với
phe Ulema và những thành viên thành
lập những mặt trận giới hạn,
tập trung vào những trường
Hồi giáo ( Madrasahs) địa phương.
Tuy nhiên bộ chỉ huy của Ðảng không
thể hỗ trợ mạng lưới
này một cách có hiệu lực.
* Ðảng Mahaz-I-Milli-Islami được
Pir Gailani lãnh đạo, ông là một
người lãnh đạo tôn giáo
có nhiều liên hệ với phong trào
Sufi và được thừa hưởng
một di sản tinh thần cao quý, ông có
những người theo nằm trong những
bộ tộc người Pushtun ở phía
Nam A phú hãn. Sự liên hệ hôn
nhân của ông với gia đình
Hoàng phái và những dính líu
gần gũi của ông với chế
độ cầm quyền Durrani trước
đây đã làm cho ông thành
một người ủng hộ cụ thể
cho vị vua tiền nhiệm là Zahir Shar, chức
vụ ủng hộ đó được
dân cư vùng Kandahar biết đến.
Do đó Ðảng là cái loa hữu
hiệu cho nhà cầm quyền trước.
Pir Gailani là một người ôn hòa
cấp tiến và do đó là hiện
thân những quan điểm của những
gì còn lại của giai cấp có
giáo dục nghề nghiệp hướng
đến một địa hạt lớn
lao hơn những lãnh tụ kháng chiến
Mujahidin.
Từ khi những Ðảng
này được sắp đặt như
là những đường dây
để nhận viện trợ quân sự,
nó trở nên khó khăn để
quyết định phạm vi nào để
cho những nhóm khác nhau bên trong
nước A phú hãn ràng buộc
với một đảng hay đảng khác
bởi những nguồn tài trợ
cung cấp, và mức độ niềm
tin nào là yếu tố quyết định.
Sự thật là trong bất kỳ làng
mạc hay gia đình nào cũng có
hơn một đảng hiện diện và
chuyện này làm cho vấn đề
càng thêm rắc rối. Tuy nhiên người
ta có thể định rõ những
vùng nào bị những ảnh hưởng
sâu đậm và dính líu đến
một đảng đặc biệt nào từ
trước.
Vì vậy Ðảng Jamiat
có nhiều người theo ở thung
lũng Shomali nằm ở phía Bắc
Kabul và Kapisa. Takhar và Badakshan, tất cả
ở về hướng Ðông Bắc.
Nó cũng có người đại
diện trong vùng Ismail Khan ở khu Tây
Bắc A phú hãn. Ðảng Hisb-e-Islami
của Hekmatyar cũng có một số người
theo ở rải rác trong những tỉnh
Nangarhar và Kunduz, cùng với thành
phố Baghlan, về phía nam Kunduz, Younis Khalis có
căn cứ địa của ông ở
Paktia. Gailani có sự ủng hộ mạnh
ở Kandahar. Mujadini và Muhammadi đều
có những vùng đại diện
dọc theo miền Nam.
Ðảng Jamiat đã gặp
nhiều khó khăn khi xây dựng phong
trào ở những vùng có
bộ tộc Pushtun và nó luôn duy trì
là một đảng đại diện cho
những người thiểu số miền
Bắc, đặc biệt là dân Tajiks.
Ðiều này thực tế cho thấy
phần lớn những xã hội
không còn sống theo lối bộ tộc
ở miền Bắc không có cấu
trúc để có thể đứng
vững ảnh hưởng của phong trào
có tổ chức. Những lãnh
đạo bộ tộc ở miền Nam thì
ngược lại, họ chống lại bất
cứ ảnh hưởng nào đến
từ bên ngoài.
Chính phủ Pakistan có lẽ
hy vọng duy trì một mức độ
kiểm soát nào đó qua dân số
tỵ nạn, đã thúc đẩy những
đảng phái kháng chiến Mujahidin thiết
lập những văn phòng ở nhiều
trại tỵ nạn và xây dựng những
trại của họ luôn. Những người
tỵ nạn phải trở thành thành
viên của bất cứ đảng nào
thống trị nơi trại đó. Làm
như vậy thì người tỵ nạn
mới có thể xin được
khẩu phần ăn. Những đảng
tìm kiếm thành viên mới trong
số đàn ông và thanh niên trong
trại để chiến đấu cho họ
và những trại trở thành
căn cứ cho những cuộc xâm
nhập tấn công vào A phú hãn,
với kết quả là những
đảng đó trở nên vô
cùng mạnh mẽ.
Trong số những đảng,
Ðảng Hisb-e-Islami của Gulbuđin Hekmatyar tìm
thấy sự thuận lợi đặc
biệt với những yếu tố
trên trong nước Pakistan vốn cung cấp
sự hỗ trợ cho kháng chiến
quân Mujahidin, đáng chú ý có
Ðảng Jamâat-e-Islami và Cơ Quan Tình
Báo Bên Trong. Hoa Kỳ coi như ý thức
được sự bất quân bình
này nhưng nghe nói bỏ qua trên căn
bản vì khả năng tổ chức
lớn mạnh rõ ràng của Ðảng
Hisb-e-Islami.
Bảy đảng đã
tạo nên sự Liên Minh Bảy Ðảng
vào tháng Năm 1985, họ đều
là môn đồ của phái Si đạo
Hồi và chỉ có Ðảng Jamiat là
thuộc sắc dân Pushtun. Thêm vào đó,
có hai Ðảng Shi’a. Ðảng lớn
hơn trong hai đảng đó là Hisb-e-Wahdat,
được lập thành với
sự khuyến khích của chính quyền
Iran hầu mang những đảng A phú
hãn đến đóng đô ở
Iran dưới một cái dù che chở
và làm tăng thêm sức mạnh
vốn đang tranh chấp của Shi’a trong cuộc
tranh giành quyền lực trong nước
A phú hãn. Ðảng Hisb-e-Wahdat kiểm
soát khu vực Hazarajat nằm ở trung
tâm A phú hãn năm 1987, dưới
sự lãnh đạo của Abdul Ali Mazari.
Ðảng Shi’a kia, tức là Ðảng
Harakat-i-Islami khác, được Sheikh Assef
Mushini lãnh đạo, có những người
theo là những người Shi’a có
giáo dục ở thành thị. Muhsini
luôn đóng vai trò là người
trung gian giữa lúc những tay chơi
chính tranh đấu giành quyền ưu
thế thống trị.
Cuộc chiến tranh giữa
những lực lượng Liên xô
và kháng chiến quân Mujahidin trải
qua nhiều thời kỳ. Từ 1979 đến
1986, khi Babrak Karmal làm chủ tịch nhà
nước do Liên xô hỗ trợ,
lực lượng chính quyền và
Liên xô luôn ở thế tiến
công mãnh liệt. Ðiều này phù
hợp với những chính sách
diều hâu của Leonid Brezhnev, Yuri Andropov và
Konstantin Chernenko. Khi Mikhail Gorbachev vào cầm đầu
Ðiện Kremlin năm 1985, sau một thời
gian đầu nhiệt tình theo đuổi
sự chọn lựa quân sự, ông
bắt đầu thay đổi chính sách
để cuối cùng dẫn đến
quyết định cuối cùng là rút
quân ra khỏi A phú hãn. Sự ra
đi của ông trùng hợp với
quyết định của Tổng thống Ronald
Reagan năm 1985 là tăng thêm sự
viện trợ cụ thể của Hoa Kỳ
cho kháng chiến quân Mujahidin. Ðiều
này bao gồm chuyện cung cấp cho họ
hỏa tiễn Stinger, giúp kháng chiến
quân có thể bắn hạ trực
thăng hay máy bay bay thấp. Cả hai loại
máy bay này đã gây nhiều
tổn thất và nhân mạng ở
vùng quê. Rất nhiều người
cho rằng chính hỏa tiễn Stinger đã
là yếu tố quyết định lật
ngược thế cờ trong cuộc chiến
với người Nga. Chuyện ấy
có thể đúng nhưng có điều
quan trọng cần phải nhận rằng Gorbachev
đã muốn đóng lại chương
A phú hãn trong lịch sử Liên
xô vì những vấn đề nghiêm
trọng ông đã phải đối
phó ở nhà.
Từ năm 1987, Liên
xô chứng tỏ sự cam kết của
mình trong những hiệp ước
hòa bình do Liên Hiệp Quốc bảo
trợ vốn được tổ chức
trong suốt cuộc chiến, bao gồm Pakistan,
Hoa Kỳ và chính phủ A phú hãn,
nhưng những Ðảng kháng chiến
bị loại trừ ra ngoài. Kết quả
của truyện ký kết Hiệp Ước
Geneva vào tháng Tư 1988, trong đó
nêu rõ quân đội Liên xô
phải rút khỏi A phú hãn vào
ngày 15 tháng 2 năm 1989, lại không
có điều khoản nào nói về
một chính phủ mới của A phú
hãn, mà cứ coi như có sự
tiếp nối của một chính quyền
do Liên xô hỗ trợ, và do đó
coi thường những Ðảng kháng
chiến như là những người
tham gia có năng lực vào một nội
các tương lai. Tuy thế chính quyền
Liên xô đã làm vài biện
pháp để làm cho chính phủ của
Ðảng Dân Chủ Nhân Dân được
quần chúng chấp nhận nhiều hơn.
Trong đó có chuyện thay thế Babrak
Karmal bằng Muhammad Najibullah vào năm 1986, để
có thể trưng bày một gương
mặt ít giáo điều cố chấp
hơn. Tổng thống Najibullah đã chứng
tỏ ông ta là một người cực
kỳ lão luyện trong chuyện mua chuộc sự
ủng hộ của những người
lãnh đạo truyền thống khắp
nước- một chính sách đã
được người tiền nhiệm
ông thi hành , nhưng kém có kết
quả hơn.
Tuy thế cộng đồng
quốc tế tiên đoán là chính
quyền của Tổng thống Najibyllah được
Liên xô hỗ trợ sẽ sụp đổ
ngay lập tức sau khi quân Liên xô
rút ra. Ðể làm cho chuyện này
chóng xảy ra, Pakistan và Hoa Kỳ áp
lực mạnh Liên Minh Bảy Ðảng
thành lập một chính phủ-chờ
đợi-chuyển tiếp. Dưới
ống kính lòe loẹt hào nhoáng
của truyền hình quốc tế, những
người lãnh đạo kháng chiến
Mujahidin có những buổi họp dài
trong những ngày chiếm đóng
sau cùng của Liên xô. Thỏa hiệp
giữa họ có vẻ mơ hồ, nhưng
Liên Minh Bảy Ðảng được
tái cấu trúc vào một chính
quyền lâm thời chỉ vài ngày
trước cuộc rút quân của
Liên xô.
Ðồng thời Liên
Hiệp Quốc kêu gọi mạnh về sự
giúp đỡ của quốc tế
để giúp đỡ cho sự
hồi hương của sáu triệu người
A phú hãn đang trú ẩn ở
Pakistan và Iran, và không phải là
không có lý khi cho rằng sự ra
đi của chính quyền do Liên xô
hỗ trợ sẽ là dấu hiệu
cho sự chấm dứt cuộc thánh
chiến do Hồi giáo phát động.
Trong và sau biến cố ngày 15 tháng
2 ( ngày Liên xô rút quân) ,dù
quân đội Liên xô rút quân
như lời đã hứa, chính
quyền Najibullah chưa tỏ dấu hiệu sụp
đổ gì là sụp đổ. Chính
phủ lâm thời A phú hãn bàn
thảo để tạo ra thế hợp pháp
cho nó bằng cách dựng nên một
thủ đô khác trong A phú hãn.
Jalalabad được chọn là một
địa điểm thích hợp nhất
và quân kháng chiến Mujahidin tiến
hành chuyện bao vây thành phố này,
họ dùng hỏa lực mạnh để
rán đạt mục đích. Tuy nhiên
họ thất bại trong cố gắng ấy
và phải mất thêm ba năm thì
chính phủ do Liên xô đỡ
đầu cuối cùng mới sụp
đổ vào tháng Tư 1992, coi như nó
còn sống lâu hơn Liên Bang Sô
Viết vì Liên Bang này sụp đổ
năm 1991. Trong những tháng hấp hối,
Liên xô đã đạt được
thỏa hiệp với Mỹ rằng cả
hai bên ngưng cung cấp thiết bị quân
sự cho phe được che chở
tương ứng, tức chính phủ
Najibullah và phe kháng chiến Mujahidin.
Trong khoảng thời gian 1989-
1992, chính phủ kiểm soát được
những thành phố Kabul, Mazar-i-Sharif, Kandahar,
Heart, và Jalalabad, cùng với những
trung tâm nhỏ hơn, trong khi phe kháng chiến
Mujahidin hiện diện ở vùng quê,
tấn công vào những vị trí
của chính phủ và bắn rốc –kết
vào thủ đô. Khả năng của
chính phủ nắm giữ quyền lực
phần lớn nhờ vào nguồn
viện trợ cung cấp bởi Liên
xô, vốn giúp cho chính phủ giữ
được những vị trí thành
thị và cả chuyện cung cấp cho dân
cư thành thị một số lương
tương đối hợp lý để
sống. Thêm vào đó, nó có
thể mua chuộc sự ủng hộ ở
những vùng quê, bao gồm những
việc làm của vài nhóm quân
sự khác nhau, chẳng hạn như nhóm
Rashid Dostam ở phía Bắc A phú hãn.
Khi nguồn viện trợ khô cạn, Najibullah
đứng vào thế dễ bị thương
tổn và tấn công bởi những
người ngấm ngầm muốn đoạt
quyền lực ngay trong phe cánh của ông.
Chế độ Najibullah cũng
được hưởng lợi từ
sự nứt rạn ngày càng lớn
trong những cấp lãnh đạo của
kháng chiến quân Mujahidin. Sự đoàn
kết tương đối họ phô bày
trong thời gian xâm chiếm của Liên
xô nhanh chóng tan đi sau khi Liên xô
rút quân. Những vùng đồng
quê trở nên nguy hiểm hơn những
năm trước đây khi sự
hợp nhất đoàn kết cũ
vốn giữ nhiều thành phầm kháng
chiến lại với nhau đã bị
bể ra từng mảnh và sinh ra nhiều
phe phái. Những trận đánh địa
phương nổ ra giữa thành viên
của nhóm kháng chiến này với
thành viên nhóm khác, đẩy
làng này đối chọi với
làng kia, láng giếng kình chống
nhau và anh em gây hấn nhau. Những
cấu trúc truyền thống hòa giải
của những bậc trưởng lão
trong làng đã cố gắng dập
tắt những chuyện đánh nhau nổ
ra và đã mang lại một vài thành
công. Tuy nhiên những sự thương
lượng đàm phán của chính
phủ Najibullah với những người
lãnh đạo Mujahidin và những người
lãnh đạo truyền thống khắp
nước đã làm hại đến
sự đoàn kết thônggnhất
của phong trào.
Tình hình ở Peshawar
cũng không có gì sáng sủa
hơn. Thành phố này trở nên
một nơi có nhiều nỗi sợ
thường xuyên, với những
người A phú hãn cấp tiến
và những người làm việc
thiện nguyện trở nên mục tiêu
đặc biệt của những phong trào
nhỏ chống Tây phương từ một
viễn cảnh của Hồi giáo. Chuyện
ám sát những người trí
thức xảy ra thường xuyên.
Ít nhất có một người làm
việc thiện nguyện mất tích, và
những người khác phải ra
đi vì bị hăm dọa giết chết.
Một cuộc nổi loạn ở một trong
những trại tỵ nạn xảy ra vào
tháng Tư 1990 đã phá hủy tất
cả những cơ sở của một
cơ quan thiện nguyện lớn sau khi những
người Hồi lãnh đạo địa
phương ( Mullah) đã tố cáo một
cách sai lầm rằng cơ quan này tìm
cách dụ những người góa
phụ đổi sang Ðạo Thiên chúa.
Sự sụp đổ của
chính quyền Najibullah vào tháng Tư
1992 đã có tác dụng chấm dứt
một cách hợp pháp những
tổ chức thánh chiến Jihad và
thúc đẩy một số lớn người
tỵ nạn trở về từ Pakistan
và một số khác nhỏ hơn từ
Iran. Mức độ trở về được
coi là khá thấp trong những năm
trước đây bây giờ
nhảy vọt mau chóng lên tới con
số 1.2 triệu người trở về
từ Pakistan trong khoảng thời gian sáu
tháng qua mùa xuân, hạ và đầu
mùa thu năm 1992. Từ đầu năm
1994, con số người A phú hãn
đã xuống còn con số 1.47 triệu
từ số người nguyên thủy
là 3.2 triệu và con số người
tỵ nạn A phú hãn ở Iran đã
xuống còn 1.85 triệu người so
với con số lúc đầu là
2.9 triệu.
Sự tiếp tục tồn
tại gần như chắc chắn của phong
trào thánh chiến Jihad là nguyên
nhân chủ yếu do sự miễn cưỡng
trở về sớm của người
tỵ nạn, dù những yếu tố
mất an ninh và kinh tế cũng có
góp phần trong đó. Cũng có
thể là những đảng kháng
chiến chủ động trong chuyện làm
nản người tỵ nạn trở
về nước từ những trại
tỵ nạn cho đến khi một chính phủ
Hồi giáo được thành lập
ở Kabul, và nhiều lợi ích
dành cho những thành viên của
họ khi trở về A phú hãn ngay
khi chính phủ Najibullah sụp đổ, để
từ đó tăng cường
thêm sức mạnh tương ứng
của những căn cứ địa
nằm trong nước. Tuy nhiên, để
làm chuyện này những đảng
phải chấp nhận cái rủi ro là
những người tỵ nạn, khi đã
tự do rời khỏi trại, sẽ củng
cố quyền độc lập của họ.
Trong lúc người tỵ nạn coi như
chịu sự kiểm soát của những
đảng, không phải là tự nhiên
mà xem họ đã chịu khuất phục
một cách thụ động theo ý muốn
của những đảng hay những
phe hỗ trợ. Ðối với đa
số người tỵ nạn, phong trào
thánh chiến Jihad xem chuyện họ phải
đi lưu vong là chuyện hợp lý
và chuyện trở về là chuyện
không thể khuyến khích cho đến
khi phong trào thánh chiến ngừng hoạt
động. Ða số sự quyết định
được đưa ra một cách
tự nhiên và tự do.
Sự sụp đổ của
Najibullah đã được báo trước
bởi sự đào ngũ của
những cấp lãnh đạo quân
sự miền Bắc từ vùng Uzbek
phía Bắc A phú hãn, Rashid Dostan cùng
lực lượng của Dostan, vốn dễ
nhận ra bởi mái tóc dài và
quần dài ngang bắp chân, họ nổi
tiếng là tàn bạo và đã
là một nguyên nhân quan trọng trong sự
thành công của quân Najibullah khi đánh
trận với quân kháng chiến Mujahidin
từ năm 1989 đến 1992. Một âm
mưu tính chuyện đẩy Najibullah ra khỏi
nước một cách im lặng đã
bị phá vỡ tại phi trường
Kabul và ông ta bị bắt buộc phải
trở về thủ đô, nơi ông
tìm chỗ trú ẩn và được
giúp đỡ ở một trong những
văn phòng Liên Hiệp Quốc.
Chuyện nhẹ nhàng chiếm
lấy Kabul không kéo dài được
lâu. Hekmatya tức giận vì ông đạt
được những gì ông muốn
từ chuyện san sẻ quyền lực
nên dùng đến quân sự để
củng cố vị trí của mình và
phát động cuộc nội chiến giống
như kiểu ở Beirut, ngay trên những
đường phố Kabul. Trong nhiều
tháng, đường phố bị đóng
lại, Kabul bị chia thành từng vùng
kiểm soát bởi những nhóm
khác nhau, luật pháp và chỉ thị
hầu như không hiện diện ở
đây.
Có những nỗ lực
để hợp pháp hóa chế độ
từ những cuộc thảo luận bảo
trợ bởi Pakistan giữa bảy
đảng phái của Chính Phủ Lâm
Thời A Phú Hãn. Chủ tịch lâm
thời thứ nhất là Sibghatullah
Mujadidi, được hỗ trợ bởi
Masoud trong chức bộ trưởng quốc
phòng, đã làm những gì
ông có thể làm để kiểm
soát tình hình. Khi Rabbani lên nắm
quyền sau ba tháng đầu, ông đẩy
tiến trình nhanh hơn nhưng phải đối
phó với sự tranh chấp liên
tục giữa phe Shi’a Hisb-e-Wahdat và lực
lượng Ittihad-i- Islami do Ả rập Saudi hỗ
trợ. Tuy nhiên, sau một trận pháo
kích rốc-kết vào Kabul vào tháng
Tám 1992, giết hơn 1800 thường
dân và làm một số người
chạy từ miền Bắc về Mazar-i-Sharif,
và sau nhiều trận đánh lớn
vào tháng Giêng và tháng Hai 1993,
nó chứng tỏ sự cần thiết
phải thương thảo để có một
sự xếp đặt phân chia quyền
hành trong đó Rabbani duy trì chức
Tổng thống và Hekmatyar trở thành
thủ tướng. Vị thủ tướng
này triệu tập một buổi họp tại
căn cứ Charasyab, nằm ở phía
Nam thủ đô, để thành lập
nội các, nhưng Rabbani bị bắn trên
đường đi tới đó
và phải quay trở lại. Hekmatyar không
cảm thấy an toàn trong chuyện vào
thành phố nên chỉ ra lệnh bằng
tên mà thôi.
Trận đánh lớn
trên đường phố giữa
Sayyaf của Ðảng Ittihad-i-Islami và nhóm
Hisb-e-Wahdat, vốn trú đóng ở
miền Tây Kabul khi Najibullah sụp đổ,
gây ra tai hại cho cư dân và nhà
của họ cùng chuyện có nhiều
người rời thành phố đi
về miền quê hay Iran hoặc chạy đến
những ngoại ô gần đó ở
miền Nam. Lực lượng của Masoud
cuối cùng kết hợp với
phe Ittihad bên kia, và cả hai đảng
tiến hành một công kích dữ
dội vào phía Tây Kabul vào tháng
Hai 1993 tạo nên một cuộc thảm sát
tên gọi là Afshar.
Cho đến bây giờ
cũng không rõ tại sao Masoud lại dính
líu vào chuyện này. Có thể
là ông ta suy nghĩ về sự thật
là chính phủ kháng chiến Mujahidi
đã lên nắm quyền xuyên qua
liên minh của Tajiks và Uzbeks. Do đó
ông quan ngại về chuyện làm sao để
cho phe Pushtun không giận và xa lánh mình,
có lẽ ông nhớ lại chuyện
số phận của một người lãnh
đạo Tajik chiếm quyền lực ở
Kabul là Bacha-e-Saqqao, ông này bị phe Pushtun
lật đổ năm 1929 chỉ sau gần một
năm cai trị. Do đó ông nhìn
thấy Sayyaf là một người Pushtun,
một đồng minh hữu dụng và
có thể ông ta sẽ có đường
dây nhận viện trợ từ Ả
rập Saudi. Tuy nhiên, Masoud nhận thấy mình
chống lại phe Hazaras, là phe có thể
trở nên một đồng minh tự
nhiên hơn do sự phẫn uất dai dẳng
ở miền Bắc trong chuyện chống
lại sự thống trị của phe Pushtun
trong những thập niên trước,
để từ đó riêng phe Hazaras
bị tổn thất nhiều. Vì quyền
lợi mà vào tháng Mười
1997, cái liên minh gồm ba phe Uzbeks, Hazaras và
Tajiks cùng nhau chống lại phe Pushtun Taliban. Riêng
thủ lãnh Masoud, ông được
mệnh danh là " con sư tử của vùng
thung lũng Panjshir " trong thời gian chiến
đấu chống Liên xô xâm lược
vì những hành động khôn
ngoan và cách điều binh ngoạn mục
của ông.
Masoud có những khó
khăn riêng với Hekmatyar. Những
sự căng thẳng giữa hai người
thỉnh thoảng trở lại, và điều
đó chứng minh cho thấy khó
mà đạt đến một sự
dung hòa bảo đảm cho sự phân
chia quyền lực giữa những
thành phần chính trong nước A
phú hãn. Masoud tố cáo Hekmatyar là
một công cụ của những lợi
ích chiến lược của Pakistan ở
A phú hãn và nhận thấy bất
cứ một sự hợp tác nào
với ông ta đều mở ra một
con đường cho Pakistan thi hành chính
sách thực dân. Hekmatyar muốn có
quyền lực tối cao ở A phú
hãn, và coi Masoud như là một trở
ngại chính trong mưu đồ này.
Bất kỳ những tính
toán gì của Rabbani và Masoud về
cách hay nhất để đạt tới
một chính phủ Hồi giáo có sự
ủng hộ rộng rãi ở A phú
hãn cũng bao gồm chuyện họ thành
công trong sự cô lập phe Uzbeks cũng
như nhận thấy họ phải đụng
độ với phe Hazaras. Dostam đóng
một vai trò chính trong sự sụp đổ
của Najibullah và hy vọng được
chia quyền hành ở Kabul. Ông quyết
tâm đòi hỏi một hệ thống
chính quyền liên bang, trong đó những
vùng đất sẽ được
tự trị ở mức độ
cao, nhưng ông liên tục bị cho ra rìa.
Vào tháng Mười Hai 1992 Rabbani được
bầu lại chức tổng thống bởi
một hội đồng quốc gia do ông
chọn lựa, điều đó chứng
tỏ ông không coi Dostam cũng như những
người lãnh đạo khác ra
gì cả. Những mối liên hệ
ngày càng trở nên tệ hại
qua năm sau. Cuối cùng, vào ngày
1 tháng 1 năm 1994, đạn rốc-kết
bắn như mưa vào Kabul trong khi Dostam và
Hekmatya phối hợp lực lượng
với nhau để bứng Rabbani ra khỏi
chức vụ. Cuộc tấn công thất
bại nhưng nó tạo nên sự hoảng
sợ trong dân chúng và dẫn đến
chuyện sự ra đi của hơn 65000 người
tới Pakistan và những miền khác
ở A phú hãn. Hekmatya tiếp tục
bắn đạn rốc-kết vào thủ
đô cho đến hết năm 1994, đẩy
số người rời thủ đô
lên tới con số 300000, nhưng ông
không đạt thêm sự tiến bộ
nào trong cố gắng tóm thâu quyền
lực.
Tháng Ba 1995 chứng kiến
sự tống xuất Hekmatyar ra khỏi căn
cứ địa của ông tại Charasyab
bởi bàn tay của phe Taliban, và sự
loại bỏ đồng thời phe Hisb-e-Wahdat,
vốn là một lực lượng
hữu hiệu ở Kabul. Lần đầu
tiên kể từ khi phe kháng chiến
Mujihidin chiếm thủ đô vào tháng
Tư 1992, Kabul không còn ăn đạn
rốc-kết và thủ đô được
hưởng một giai đoạn thanh bình
và lôi kéo sự trở lại
làm việc của những cơ quan thiện
nguyện. Sự giúp đỡ của
họ rất cần cho mùa Ðông khi
sự ngăn cản đồng thời
của phe Taliban và Hekmatya ( từ một
căn cứ khác ở Sarobi, đóng
chắn ngang đường lộ chính
Kabul-Jalalabad), đã tạo nên sự
khủng hoảng cho nhân dân về chuyện
thiếu hụt thực phẩm và nhiên
liệu.
Sau những lời kêu
gọi liên tục đến Rabbani nên đồng
ý tham gia đề nghị hòa bình
do Liên Hiệp Quốc và những phe
khác bảo trợ, nhằm trao quyền
hành lại cho một chính phủ lâm
thời, cuối cùng Rabbani và Masoud
thương thảo với Hekmatyar xem coi ai là
người sẽ là thủ tướng
trong chính quyền mới của quốc
gia thống nhất. Dostan đang ở thế
liên minh với Hekmatyar và Hisb-e-Wahdat,
có vẻ không được hài
lòng lắm với sự sắp đặt
mới và từ khước đề
nghị mời ông tham gia. Tuy thế, Rabbani,
Masoud, và Hekmatyar tìm cách cầm quyền
trong vài tháng trước khi họ bị
phe Taliban đẩy xuống. Hekmatyar đánh
dấu thời gian cầm quyền ngắn
ngủi bằng cách thận trọng giới
thiệu ra một số chính sách nhắm
vào chuyện gia tăng sự thích ứng
của dân chúng đến những
điều mà ông coi là những
sự đòi hỏi của Hồi giáo.
Tuy thế những điều này cũng
không đến nỗi quá khắc nghiệt
như những luật lệ được
áp dụng bởi phe Taliban sau này.
Trong lúc những sự
cải tiến được thi hành ở
Kabul trong khoảng thời gian từ 1992-
1996, phần còn lại của quốc gia được
cai trị theo từng vùng riêng biệt,
mỗi miền đều chịu những
điều kiện khác nhau. Ở Herat,
người lãnh đạo phe kháng
chiến Jamiat là Ismail Khan lên nắm quyền
cai trị ngay khi chính phủ Najibullah sụp đổ
vào tháng Tư 1992. Ông có thể
tạo ra những điều kiện cần
thiết trong ba năm cho sự ổn định
và phát triển, và chuyện này
chỉ chấm dứt sau khi phe Taliban chiến
thành phố vào tháng Chín 1995. Tỉnh
Mazat dưới sự cầm quyền của
Dostam cũng gần như yên lành mặc
dù súng đạn được tích
trữ nhiều thêm. Phe Ismailis liên minh
với Dostam kiểm soát vùng Pul-I-Khumri
và quốc lộ chính phía Bắc Salang
Pass, đã đi đến thỏa hiệp
với những người lãnh
đạo kháng chiến địa phương,
và đã giữ được
sự thanh bình trong một khoản thời
gian dài. Phe Tajiks nằm ở hướng
Ðông Bắc, dù nằm giữa
những ngọn núi cao ngất trời
trong dãy Pamir, tiếp tục tồn tại với
một số đất đai hợp lý
được dành cho dưới sự
kiểm soát của phe Jamiat. Những tỉnh
phía Ðông thì ngược lại,
chúng được nối kết lại
với nhau bởi một liên minh gượng
gạo của những đảng kháng
chiến Mujahidin ngồi lại với nhau ở
Nangarhar dưới sự lãnh đạo
của phe Haji Quadir. Sự căng thẳng âm
ỉ và ngày càng gay gắt dưới
bề mặt , và có những chuyện
riêng biệt như chuyện ám sát không
giải thích bốn nhân viên Liên
Hiệp Quốc vào tháng Hai 1993 đã
nói lên cho người ngoài biết
sự mong manh dễ rạn nứt của
tình hình. Tuy vậy, đi xa hơn về
hướng Nam, có thành phố Khost
tìm cách giữ được sự
đoàn kết giữa những người
kháng chiến Mujahidin sau khi chiếm được
vào tháng Ba 1991 và đã lôi
kéo được nhiều viện trợ
cụ thể. Tỉnh Ghazni, ở về phía
Tây bắc của Khost, cũng tìm được
một người lãnh đạo là
Qari Babar, đã tạo ra được
sự thống nhất. Riêng tỉnh Gardez
nằm giữa hai tỉnh trên, vẫn không
được yên ổn vì từ
khước mọi nỗ lực tái
lập trật tự. Riêng tỉnh Kandahar thì
coi như vô chính phủ từ năm
1992 cho đến khi phe Taliban chiếm được
sau khi đánh nhau với những quân
kháng chiến Mujahidin và chiến tranh đã
làm cho thành phố này tan tành
vì súng đạn giao tranh.
Chính phủ được
gọi là chính phủ kháng chiến
Mujahidin của đất nước Hồi
giáo A phú hãn chỉ là một chính
phủ liên hiệp được hình
thành từ sự hỗn hợp
của bảy đảng phái chính trị
mà trước day đã từng
tạo nên chính phủ lâm thời
A phú hãn. Như đã nói ở
trên, chính phủ lưu vong này có
được là vì quyết định
của chính quyền Pakistan, được
Hoa Kỳ hỗ trợ, đã đổ
nguồn viện trợ đến phong trào
kháng chiến nằm trong A phú hãn
thông qua một số cơ quan giới
hạn. Có ba trong số bảy cơ quan được
chọn lựa nhận viện trợ có
nguồn gốc từ phong trào Hồi
giáo vốn nổi lên từ đại
học Kabul vào khoảng cuối thập niên
1950. Chính quyền Hoa Kỳ, trong nỗ lực
làm tiêu hao Liên xô, đã tạo
ra một chính phủ ở A phú hãn
có gốc rễ từ một nhóm
nhỏ cấp tiến nằm trong giới
trí thức ở đại học,
và phải thay thế chính phủ thiểu
số của Ðảng Dân Chủ Nhân
Dân bằng một chính phủ thiểu
số khác. Tư thế tương đối
yếu kém này của ba đảng phái
truyền thống trong chính phủ có nghĩa
rằng nó chưa bao giờ có thể
thiết lập một sức mạnh căn
bản ở vùng thôn quê, ngoại
trừ có lẽ ở vùng Ðông
Bắc,nơi mà phe Jamiat nắm quyền kiểm
soát. Những hy vọng của Rabbani nhằm
xây dựng sự ủng hộ từ
phía nông dân chưa bao giờ trở
thành hiện thực ngoài những
khu vực này: nguồn gốc Tajiks của
ông đã làm cho chuyện này không
thể thành được, đặc
biệt là trong những vùng bộ tộc
Pushtun. Hơn thế nữa, chính phủ
có chính sách cô lập và làm
đa số quần chúng bất mãn
trong vòng đai những vùng bộ
tộc Pushtun- vốn là những người
có thể được những giá
trị Hồi giáo thuyết phục – xuyên
qua sự đấu tranh liên tục giành
quyền lực và đã tạo thành
dấu ấn trong thời gian cầm quyền.
Ðó là con đường được
mở ra cho phe Taliban lên nắm chính
quyền để rồi từ đó
gây thêm bao chết chóc,đau thương
và bất hạnh cho người dân
A phú hãn.
Lawndale, một sáng nắng
ráo đầu tháng 1- 2002
Trần Viết
Ðại Hưng
|