VÀI
NÉT ÐẠI CƯƠNG VỀ ÐẤT
NƯỚC A PHÚ HÃN (AFGHANISTAN)
Chữ
"Afghan" là một chữ lịch sử
thường dùng để gọi tên
những người trong một nhóm
có tên là Pashtuns, nhưng đất
nước A phú hãn (Afghanistan) là
một quốc gia đa văn hóa và
đa chủng tộc. Ðất nước
này được hình thành do sự
mở rộng chính trị của những
bộ lạc Pashtun vào giữa thế kỷ
thứ 18 nhưng không thống nhất
cho tới cuối thế kỷ 19. Số
dân của nhóm nói tiếng Ba-Tư
( Tajiks, Hazaras, và Aymaqs) cùng nhóm nói
tiếng Thổ (Uzbeks và Turkmens ) hòa nhập
vào để tạo nên đất nước
này. Kể từ khi có cuộc đảo
chánh của Cộng sản năm 1987 và
sau đó là cuộc nội chiến kéo
dài, nhưng sự hiện hữu của
đất nước A phú hãn là
chuyện phải đặt thành vấn đề
nghiêm trọng. Hàng triệu người
lưu vong đã chia sẻ kinh nghiệm chung
trong khi sống ở quê người
đã cảm nhận được thế
nào là cái cảm giác yêu quê
hương.
A phú hãn là
một nước ở Á châu
có diện tích 251825 dặm vuông (tương
đương với 652225 kilômét
vuông), chung quanh được bao bọc bởi
những quốc gia Pakistan (Hồi quốc),
Iran, Turkmenistan, Uzbekistan, Tajikistan, và Trung Hoa. Ðịa
hình bao gồm tổng hợp vùng cao
nguyên trung tâm và vùng đồi
núi ngoại vi cùng những đồng
bằng. Quốc gia này có khí hậu
khô của vùng đại lục. Mùa
hè khô và nóng, trong khi mùa Ðông
lạnh có tuyết rơi nhiều trên
những vùng cao nguyên. Lượng
mưa thấp dù nhiều vùng ở
phía Ðông chịu ảnh hưởng
của gió mùa. Hầu hết đất
nước bao gồm những thảo
nguyên, với nhiều khu vực sa mạc
và một số vùng canh tác. Dân
A phú hãn một số theo chế độ
du mục, số khác sống nhờ canh
nông vùng núi và số còn
lại làm canh nông theo phương pháp
tưới nước cho đất
ẩm để trồng trọt. Vào cuối
thế kỷ thứ 18, Kabul trở thành
thủ đô. Ðịa điểm thủ
đô Kabul nằm trên vùng lòng
chảo rộng trên con đường
nối Ấn Ðộ và Trung Á.
Không có sự
thống kê chắc chắn nhưng vào
năm 1997, dân số ước lượng
chừng 23738000 người. Ða số
sống ở vùng nông thôn ( 80 %
). Dân số thủ đô Kabul lên tới
con số cao nhất là 1 triệu người
trong thập niên 1980 nhưng giảm sút nhiều
sau khi chính phủ Cộng sản sụp đổ
năm 1992.Những thành phố chính
như Mazar-e Sharif, Heart, và Kandahar (Qandahar) là
những thành phố chính với
mật độ dân số chừng 200000
dân cho mỗi thành phố. Những
thành phố quan trọng có thể kể
tên là Jalalabad, Kunduz, Baghlan, và Ghazni.
Mật độ nhân
khẩu đáng chú trọng của giống
dân Pashtuns đã giảm sút từ
năm 1978 vì họ đã trở thành
thành phần tỵ nạn chủ yếu ở
Pakistan. Ước lượng chừng
giống dân Pashtuns chiếm 38 % dân số
toàn quốc, chủ yếu ở vùng
Tây Nam, Nam, và Tây, và một số
ở miền Bắc; họ bị chia ra bởi
những liên bang Durrani và Ghilzay và
thuộc về nhiều bộ tộc nằm ở
biên giới Pakistan. Giống dân Tajiks
(25 %) sống chủ yếu ở vùng
Ðông Bắc, Tây Bắc, và những
vùng trung tâm thành thị. Giống dân
Hazaras (19 %) sống ở vùng trung tâm
Kabul và Mazar-e Sharif. Giống dân Uzbeks (6 %)
chiếm cứ vùng phía Bắc. Số
12 % còn lại của dân số bao gồm
giống dân Aymaks (là nhóm nói tiếng
Ba-tư theo luật cổ truyền Hồi giáo
Xuna ở phía Tây Bắc), giống
người Thổ (cư trú dọc theo
biên giới với Turkmenistan), Baluchis
(ở phía Tây Nam) và hai giống
dân Nuristanis và Pashays (ở phía Ðông
Bắc của Kabul).
Ngoại trừ một
thiểu số người theo Ấn giáo,
đạo Sikh và Do thái giáo đã
rời đi, tất cả dân số
đều theo đạo Hồi, được
chia thành hai phái; phái Xuna (Sunnis) ước
chừng 84 % dân và phái Shi (Shiites)
chiếm chừng 15 %, đa số là
người Hazaras; có một số vùng
đất nhỏ ở miền Ðông
Hazarajat và Badakhshan là vùng cư trú
của những nhóm người trên.
Có một số lượng người
tỵ nạn lớn lao đi ra ngoài nước
A phú hãn kể từ năm 1978, con
số lên tới 6 triệu người
vào năm 1990- đây là con số
người tỵ nạn lớn nhất
trên thế giới. Dù có một
số lớn dân tỵ nạn trở
về sau khi chính phủ Cộng sản sụp
đổ vào tháng 4 năm 1992, vẫn
còn chừng vài triệu người
tỵ nạn A phú hãn vẫn còn ở
tại Pakistan, Iran, và những nước
khác trong bán đảo Ả rập. Những
người thuộc giai cấp trung lưu và
trí thức đã định cư
luôn ở Tây phương.
Ða số cư dân
nói hai hay ba thứ tiếng, và những
ngôn ngữ chính của A phú hãn
được sử dụng ở những
quốc gia láng giềng. Ngôn ngữ
chính thức là tiếng Ba-tư ( thường
được gọi là tiếng Dari) và
Pashto; cả hai loại này đều thuộc
nhóm Ba- tư trong gia đình ngôn ngữ
Ðông-Âu. Tiếng Ba-tư nói bởi
người Tajik, Hazaras, và Aymaks không
khác bao nhiêu so với tiếng Ba-tư
của người Iran. Tiếng Pashto, vốn
được chia thành hai tiếng địa
phương chính, cũng được
nói tại nhiều vùng lớn tại
Pakistan. Mặc dù có nhiều cố gắng
của chính phủ nhằm khuyến khích
dùng tiếng Pashto, tiếng Ba-tư được
coi là phương tiện lựa chọn để
diễn tả trong số những người
có học và người ở
thành thị. Nhóm người Ba-tư
cũng sử dụng tiếng Baluchi và
nhiều thứ tiếng còn lại. Những
ngôn ngữ vùng núi (Nuristani) được
dùng làm tiếng nói trung gian giữa
những nhóm người Ba-tư và
Ấn độ, trong khi tiếng Pashay là tiếng
nói Ấn độ truyền thống. Tiếng
Thổ được dùng bởi những
nhóm Uzbek, Turkmen, và Kirghiz,và được
nói rộng rãi ở miền Bắc.
Tiếng Mông cổ và Ả rập biến
mất.
A phú hãn chưa
từng có một nền văn hóa
thống nhất vững mạnh, và rồi
chiến tranh xảy ra làm cho đất nước
càng thêm tan nát. Lá cờ cũ
màu xanh, trắng và những sọc
ngang màu đen bị hủy bỏ và
không có bài quốc ca. Tiền tệ
quốc gia được in ở hai nơi
khác nhau, với một hối suất
địa phương thay đổi.
Vùng đất
A phú hãn hiện nay là trung tâm của
nhiều đế quốc trong quá khứ,
bao gồm những vương quốc Hy lạp-
Phật giáo và Kutch (từ thế kỷ
thứ 3 trước công nguyên đến
thế kỷ thứ 2 sau công nguyên)
và triều đại Hồi giáo Ghaznavid
và ghurid (từ thế kỷ thứ
10 đến thế kỷ 12). Nó là
nơi để cho những người
cai trị Ấán độ ra tay hành động
.
Quốc gia A phú
hãn hiện nay hình thành từ thế
kỷ 18 bởi những bộ tộc người
Pashtun trước sự tàn tạ của
những đế quốc Ba-tư và
Ấn độ. Trong thế kỷ thứ
19, A phú hãn tranh đấu thành công
trong việc chống lại những sức
mạnh đế quốc và đóng
vai trò làm nhà nước trung gian
giữa Nga và Ấn độ đang
bị Anh bảo hộ. Ba cuộc chiến tranh giữa
A phú hãn và Tây phương (1839-
1842; 1878 – 1880; 1919) có thể gây thành
một tinh thần quốc gia, nhưng lịch sử
quốc gia này luôn bị khống chế
bởi những cuộc tranh chấp nội
bộ. Nửa phần đầu thế kỷ
19 đã được đánh đấu
bởi sự tranh chấp đầy hận
thù giữa hai phái Durrani của giống
dân Pashtuns, cuối cùng thì phe Mohammadzay
thành công và cầm quyền cai trị
cho đến năm 1978. Vua Abdur Rahman ( Abdorrahman
Khan, trị vì từ 1880 đến 1901)
thiết lập quyền lực trên toàn
đất nước sau khi dập tắt
sự chống đối của những
người trong bộ tộc của ông
và đánh bại phe Ghizay của dân
Pashtuns, phe Hazaras, và phe miền núi Kafirs.
Dù có sự thống nhất về
chính trị trong triều đại của
ông, chiến thuật tàn bạo của
ông tạo nên sự thù nghịch
giữa hai phe Xuna (Sunnis) và Si (Shiites), giữa
giống dân Pashtuns và những sắc
dân khác, và ngay giữa những
người dân Pashtuns, cũng như giữa
dân thôn quê và thành thị.
Vua Amanullah (Amanollah Khan,
trị vì từ 1919- 1929) cố gắng
ban hành vài chương trình cải
tổ nhưng thất bại. Một cố gắng
thiết lập một chính quyền có
quốc hội sau năm 1963 rốt cuộc chỉ
tạo ra thêm nhiều rắc rối xã
hội – đã dẫn đến chuyện
bị Cộng sản thâu tóm quyền lực
vào năm 1978, nhiều người trong
nhóm Cộng sản này mới về
thành thị, họ từ giã nếp
sống bộ tộc để tìm kiếm
sự cải tiến xã hội. Chỉ trong
vòng vài tháng trong nước loạn
lạc nổi lên khắp nơi, và năm
1979, Liên Xô nhảy vào can thiệp bằng
quân sự. Một cuộc chiến tranh du
kích đẫm máu diễn ra trong mười
năm sau đó giữa Hồng quân
Liên Xô và những người
kháng chiến A phú hãn ( được
biết đến với cái tên
Mujâhedin), trong đó có 1 triệu người
A phú hãn bị chết và hàng
triệu người khác bỏ nước
ra đi. Liên Xô rút quân năm
1989 và sự sụp đổ của chính
quyền Cộng sản năm 1992 đã dẫn
đến sự bùng nổ của nhiều
sự căng thẳng và bất đồng.
Ðể đối phó với tình
trạng này , phe Taliban ( gồm nhiều sinh
viên thần học từ những trại
tỵ nạn ở Pakistan) chiếm miền
Nam trong mùa Ðông năm 1994- 1995 và
tái lập an ninh. Từ lúc ấy họ
chiếm dần hết những phần đất
khác trong nước, nhưng họ không
thể hợp tác với những
nhóm khác hay được sự
công nhận của quốc tế.
Cho đến năm
1978, A phú hãn tránh được
sự tan rã nhờ vào sự
chia sẻ chung một tôn giáo và sự
tự trị tương đối của
những cộng đồng địa phương
dù chính quyền dành ưu tiên
cho nền văn hóa Pashtun và truyền
thống dân gian. Nhiều cư dân cảm
thấy họ chủ yếu thuộc về cộng
đồng địa phương và thứ
đến là cộng đồng Hồi
giáo. Bản diện quốc gia yếu kém
nhưng đất nước không đến
nỗi phân rã. Sự an ổn mong manh
này bị phá vỡ sau cuộc đảo
chánh năm 1978. Những biểu tượng
mà nhà cầm quyền dựa trên
đó như sự độc lập chính
trị, sự liên tục lịch sử
và sự kính trọng đạo Hồi
coi như biến mất.
Trước năm
1978, sự liên hệ giữa những
chủng tộc rất gay cấn và căng
thẳng. Chính quyền thân Liên Xô
cố rán thăng tiến những quyền
hạn của con người, văn hóa,
và những ngôn ngữ của những
nhóm người không thuộc sắc
dân Pashtun. Cho dù nỗ lực cố
gắng này thất bại, nó dẫn
đến sự hao tổn quyền lãnh
đạo của phe Pashtun. Trong thập niên 1990,những
lời kêu gọi tiến triển từ
vấn đề đạo Hồi tới
chuyện chủng tộc. Cuộc chiến đấu
mang màu sắc đạo Hồi chống
lại Liên Xô đã thất bại
trong chuyện tạo thành một căn bản
chung cho sự xây dựng hòa bình
đoàn kết mọi người. Từ
năm 1992, cuộc nội chiến đã cho
thấy rõ là những sắc dân
tranh chấp nhau đưa đến sự
phân cực giữa dân Pashtuns ( là
giống dân đang chi phối phe Taliban ) và
những nhóm dân khác ( là những
nhóm phần lớn tạo thành liên
minh miền Bắc ).
Có vài thành
phố lịch sử như Balkh, Ghazni, và
Heart, nhưng sau hai mươi năm chiến tranh,
sự bảo tồn những di tích
lịch sử không phải là ưu
tiên hàng đầu. Viện bảo tàng
Kabul bị ăn cắp thường xuyên,
những cửa hàng buôn bán
ở vùng Tahsh Kurghan ở miền Bắc
không còn thứ gì quý giá
và những tượng Phật ở
Bamyan bị đặt mìn phá sập hoàn
toàn. Nhiều thành phố chỉ còn
là đống gạch vụn và chỉ
có một ít công trình xây dựng
diễn ra.
Ở phía Nam
và ở vùng trung tâm, hình thức
nhà quen thuộc nhất là trại nhiều
tầng có tường cao được
xây làm bằng bùn và rơm. Chúng
rải rác trên những cánh đồng,
đôi khi tạo thành những ấp
lẻ loi. Ở miền Bắc và hướng
Tây, những khoảng đất nhỏ
có những nhà có cột làm
bằng gạch bùn được nhìn
thấy. Ở vùng cao nguyên phía
Ðông, sự định cư được
xếp theo từng nhóm; đá và
gỗ là những vật liệu xây
dựng thông thường. Ở
vùng quê và thành thị không
thấy có những cửa hàng
buôn bán nơi dân cư sinh sống.
Nền nông nghiệp
địa phương được đặt
trên căn bản phân chia giữa công
chúng và những phần riêng tư
của nhà ở để cho đàn
bà không phải tiếp xúc với
những người lạ. Ðồ
đạc trang hoàng trong nhà nói chung
còn thô sơ. Nhiều gia đình ngủ
trong trên nệm được trải ra
ban đêm trong một phòng, và không
có chỗ nào được phân
biệt rõ rệt. Vào buổi sáng,
phòng được dọn dẹp gọn
gàng, nệm và mền bông được
chất vào một góc phòng. Những
gia đình giàu có có thể có
một phòng khách riêng biệt, nhưng
người A phú hãn không thích
ngủ một mình và thường không
sắp xếp cho khách vào những
phòng riêng.
Dân cư có hai
loại: bán du mục và du mục. Có
hai loại lều được dùng: một
loại lều Trung Ðông làm bằng
lông dê và loại lều tròn Trung
Á. Loại nhà ở tạm thời
bao gồm từ loại làm bằng sậy,
tranh cho đến hang động.
Thức ăn hàng
ngày bao gồm bánh mì lát được
nướng trên một chảo bằng
sắt hay trên một tường phía
trong một lò nướng bằng đất
sét. Bánh mì thường được
nhúng trong một thứ nước
thịt. Ya-ua và những sản phẩm
hàng ngày như bơ, kem, và kem sữa
khô ( dried buttermilk) là thành phần chính
trong khẩu phần hàng ngày, giống
như hành, đậu, trái cây khô
và đậu phụng. Gạo được
dùng ở vài nơi và ở
những nơi định cư ở
miền quê. Trứng tráng được
nấu với cà chua và hành là
món ăn quen thuộc hàng ngày. Thực
phẩm được nấu bằng nhiều
loại dầu khác nhau, trong đó bao gồm
mỡ ở đuôi cừu. Trà
được uống suốt ngày. Ðường
được dùng trong ly nước
đầu ngày, và rồi đồ
ngọt được ăn vào trong miệng
trong khi nhấp trà. Thức uống quen
thuộc là nước và sữa
bơ. Người A phú hãn dùng
tay phải để bốc đồ ăn
nằm trong một cái tô đặt trên
mặt đất. Ở nhà khi không
có khách, đàn ông và đàn
bà ăn chung với nhau. Dọc theo đường
phố và những hàng quán thương
mại, có nhiều nhà hàng nhỏ
đóng vai trò như một tiệm uống
trà và quán trọ.
Sự cấm kỵ
thức ăn thông thường theo
đạo Hồi được tôn trọng
ở A phú hãn. Chẳng hạn, chỉ
ăn thịt từ những súc vật
bị giết theo luật Hồi giáo; rượu,
thịt heo, và heo rừng không được
ăn, dù có một số người
bí mật nuôi những con vật trên
để ăn trong nhà. Nhóm Hồi
giáo Si tránh ăn thỏ và thỏ
rừng.
Kinh tế cổ truyền
bao gồm chuyện trồng trọt và chăn
nuôi súc vật. Nền nông nghiệp
tưới bón coi như chủ yếu,
nhưng sản phẩm nông nghiệp làm
ra theo mùa mưa được coi là
phẩm chất tốt hơn. Lúa mì được
coi là vụ mùa chính, tiếp đó
là gạo, lúa mạch và bắp. Những
vụ mùa làm ra tiền là quả
hạnh ( almonds) và trái cây. Vải bông
là nguồn xuất cảng chính cho đến
khi có nội chiến. Ngày nay có nhiều
vùng đất trồng trọt đã
được chuyển sang trồng cây
thuốc phiện. Sự lưu trữ giống
được những người
du mục cũng như những người
định cư thực hành. Những
người du mục sống qua mùa hè
trên những cao nguyên và trải
qua mùa Ðông ở vùng đất
thấp. Nhiều người trong bọn họ,
đặc biệt ở miền Ðông,
cũng có đổi chác.
Hầu như những
thực phẩm chế biến được
nhập cảng; chúng được tài
trợ bởi những người
tỵ nạn và di cư.
Ðồng cỏ cho
súc vật ăn được coi như
của chung, nhưng đất đai trồng
trọt là đất tư nhân. Những
hệ thống dẫn thủy được
chia sẻ chung, theo một chương trình được
ấn định trước. Phần lớn
dân số bao gồm những chủ đất
nhỏ vốn tăng thêm lợi tức
bằng cách gửi một người
trong gia đình để làm việc ở
thành phố hay ở nước ngoài.
Những nông dân nghèo không sở
hữu đất thường trở
nên người làm thuê hay bán
sức lao động mỗi ngày. Thường
bị nợ nần nên họ trở
nên lệ thuộc vào kinh tế và
chính trị vào những người
lãnh đạo địa phương và
những chủ đất.
A phú hãn sản
xuất vài món hàng thương mại.
Phe Taliban đã mở ra những con
đường thương mại giữa
Pakistan và Turkmennistan, nhưng không có sự
đổi chác chính thức nào
có thể phát triển cho đến
khi chính phủ được cộng đồng
quốc tế công nhận.
Da thuộc, len, trái
cây khô và tươi, và quả
Hồ trăn ( pistachios) được xuất
cảng, nhưng nha phiến phần lớn
vẫn là món hàng xuất cảng
chính. Quốc gia A phú hãn nhập cảng
những món hàng miễn thuế từ
Pakistan, bao gồm xe hơi, máy điều
hòa không khí, tủ lạnh, vô tuyến
truyền hình, máy phát thanh, và
những dụng cụ máy nghe nhạc. Những
sản phẩm tiêu dùng này rồi
sẽ được mang lậu đến
những quốc gia láng giềng.
Sau hơn hai mươi
năm chiến tranh, không có những
hoạt động kỹ nghệ nào đáng
kể ở quốc gia này.
Ða số những
người lao động A phú hãn
hiện diện ở Iran và những
quốc gia vùng vịnh đều trẻ
trung và là những người
phái nam chưa lập gia đình. Ở
A phú hãn chừng nào còn làm
được việc thì người
ta vẫn còn làm.
Một số nhóm
bình đẳng nhưng số khác phân
chia theo đẳng cấp xã hội. Có
những sự khác nhau nhiều về
tài sản và địa vị xã
hội. Xã hội cũng được
sắp xếp theo thứ tự căn
cứ trên tôn giáo và chủng
tộc. Hầu hết trong thế kỷ hai mươi,
những người trong hoàng tộc
nắm một vai trò quan trọng trong chính
trị cũng như những chức vụ
bộ trưởng và đại sứ.
Hầu hết những nhân viên hành
chánh cũng như những người
làm công tác kỹ thuật là những
người thành thị nói tiếng
Ba-tư. Những người theo phái
Si Hồi giáo ( đặc biệt là nhóm
Hazaras) thuộc thành phần thấp kém
nhất của xã hội. Tại những
thành phố, những chức vụ
công quyền được những
người Pashtuns nắm giữ mà
những người này không có
liên hệ gì đến quần chúng
cả. Những cộng đồng địa
phương bị điều động bởi
những địa chủ giàu có,
được hỗ trợ bởi
những người cầm đầu
làng thôn. Sắc dân Sayyeds, vốn được
coi là hậu duệ của nhà tiên tri
Muhammad qua con gái của ông là Fatima, đóng
một vai trò trung gian quan trọng như những
người dàn xếp, dựa trên
thanh thế và uy tín hơn là sự
giàu có của cá nhân. Những
người già cả trong gia đình
được hỏi ý kiến về
những vấn đề địa phương,
và nhiều cuộc tranh cãi được
dàn xếp bởi những ủy ban
địa phương. Dù sự cải
cách ruộng đất của Cộng sản
bị dân chúng phản đối, có
những sự thay đổi quan trọng
đã xảy ra. Những người
lãnh đạo cũ đã mất
đi tính ưu việt trước những
người lãnh đạo quân sự
và những người lính trẻ
nhiệt thành với tôn giáo. Có
nhiều tay buôn lậu trở nên giàu
có lớn lao.
Giai tầng trong xã
hội được bày tỏ chính
yếu qua nề nếp hôn nhân. Khuynh hướng
chung là những nhóm thuộc giai cấp
thấp hơn gả con gái cho những
nhóm giai cấp cao hơn. Sự hoang phí
của một đám cưới là
một dấu hiệu chỉ rõ cấp bậc
trong xã hội và sự giàu có.
Theo luật lệ của Taliban, đàn ông
phải đội mũ hay quấn khăn trên
đầu và phải để râu.
Những quần áo thời trang Tây
phương, đã từng dùng để
phân biệt người ở thành
thị với người dân quê,
giờ đây hầu như đã
biến mất.
Phe Taliban kiểm soát
hầu hết đất nước. Chính
phủ của họ chỉ được nước
Pakistan, Ả rập thống nhất ( the United Arab
Emirates), và Saudi Arabia công nhận. Phe Taliban
cai trị dân không có hiến pháp,
chỉ dựa vào kinh Koran của đạo
Hồi mà thôi. Có một hội đồng
không chính thức bao quanh người
lãnh đạo của họ nằm ở
Kandahar. Những bộ trưởng đều
có mặt ở Kabul, và những
viên chức hành chánh cấp thấp
hơn thường ở nguyên vị
trí, nhưng thực sự không có
một chính quyền đúng nghĩa của
nó. Ở mức độ địa
phương, những người lãnh
đạo quân sự chỉ huy những
nhóm làng thôn, đây là một
tình trạng mà phe Taliban cố gắng
chấm dứt đi.
A phú hãn không
có một chính phủ duy nhất. Những
đảng phái chính trị có liên
hệ đến những thành phần
chống đối như những người
phe Xuma và phe Si của đạo Hồi, và
nhóm Hồi giáo chính thống, đã
phát triển trong thời chiến tranh,
nhưng giờ đây họ trở
thành hai thành phần còn lại một
cách không trọn vẹn – đó là
phe Taliban và Liên Minh Miền Bắc. Những
người lãnh đạo quân sự
thực sự nắm quyền chỉ huy.
Trong nỗ lực
" trong sạch hóa " xã hội, phe Taliban đề
cao những giá trị luân lý. Không
có sự phân biệt rõ ràng
nào giữa những luật lệ tôn
giáo và dân sự, và những
người kiểm soát tôn giáo
có quyền hạn tuyệt đối. Quan
tòa dựa trên căn bản ý
niệm bộ tộc của đạo Hồi để
xử án. Những ai phạm tội ngoại
tình hay say rượu đều bị
xử phạt nặng nề. Những hình
thức đánh đập, chặt tay,và
xử tử trước công chúng
( chặt đầu, ném đá hay bắn
) thường được dùng đến.
Hàng chục ngàn người bị
bỏ tù mà không được
đem ra xử bởi những hệ
phái cầm quyền khác nhau.
Phe Taliban được
Pakistant ủng hộ, trong khi Liên Minh Miền
Bắc được Iran và những
nước Cộng hòa cũ trong Liên
Bang Xô Viết ở Trung Á hỗ trợ.
Hoạt động quân sự khá căng
thẳng, đặc biệt trong mùa Xuân
và mùa Hè.
Không có lãnh
tụ chính trị nào cố gắng phát
triển những chương trình an sinh
xã hội.
Những cơ quan
Liên Hiệp Quốc và Hồng Thập
tự có hoạt động, nhưng những
trận đánh nhau làm cản trở
những chương trình của họ.
Hàng trăm những tổ chức
địa phương và phi chính phủ
có những chương trình tháo
gỡ mìn trên đất, giáo
dục, y tế, xây dựng đường,
hệ thống nước tưới,
và canh nông. Vai trò của họ thường
mù mờ , và họ đã đóng
góp vào chuyện phân chia giai tầng
trong xã hội vì những hoạt động
của họ thường làm hạn chế
ở những khu thành thị chính
và những khu vực gần biên
giới Pakistan. Bằng cách cung cấp
gần như tất cả những chương
trình an sinh, họ đã làm cho những
nhà lãnh đạo chính trị cảm
thấy dễ dàng hơn trong chuyện quên
đi những vấn đề xã hội.
Ðàn ông và
đàn bà được phân
biệt một cách mạnh mẽ. Ngoài
xã hội là phạm vi của đàn
ông, và chuyện nội trợ gia đình
là lãnh vực của đàn bà.
Ðàn bà săn sóc con nhỏ, nấu
nướng cho cả nhà ăn,và
chùi rửa nhà cửa. Họ có
thể có một cái vườn nhỏ
và vài con gà. Ở một vài
nơi họ dệt và đan thảm. Ở
những người du mục, đàn
bà làm lều và có tự
do đi lại nhiều hơn. Trong một gia đình
nông dân, đàn ông trông coi
cừu và dê, cùng cày cấy,
thu hoạch, đập và sảy lúa cho
vụ mùa. Ở những người
miền quê và thành thị, đàn
ông không phải ở nhà trong ngày.
Trong thời kỳ chiến tranh, đàn
bà làm luôn những nhiệm vụ
của đàn ông; những người
đàn ông làm việc ở nước
ngoài phải học nấu ăn, khâu
và và giặt giũ.
Từ năm 1919
đến năm 1929, vua Amanullah cố gắng
đề cao sức mạnh của phụ
nữ. Dưới chế độ Cộng
sản, nhiều phụ nữ có thể
họ ở những trường đại
học. Khuynh hướng này bị đảo
ngược bởi chính phủ Taliban.
Bây giờ đàn bà phải
mặc một bộ đồ trùm kín
người từ trên xuống dưới
và phải được một người
họ hàng đàn ông đi kèm
khi họ rời nhà. Phụ nữ gặp
nhiều khó khăn vô cùng nếu
họ tìm kiếm việc làm hay học hành
hoặc tìm kiếm sự săn sóc
sức khỏe căn bản. Tuy nhiên, phe
Taliban đã cải tiến vấn đề
an ninh ở nhiều vùng quê, và
cho phép đàn bà hoàn thành
những nhiệm vụ hàng ngày của
họ.
Ðàn bà không
bao giờ được tham gia công
khai vào những tiến trình đưa
đến sự quyết định. Họ
được động viên và dạy
bảo là phải khiêm tốn và nghe
lời cha, anh em trai và chồng của
họ. Tuy vậy, khi được coi là
người giám hộ của danh dự
gia đình, đàn bà có nhiều
quyền lực hơn. Những người
đàn bà du mục và nông dân
đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế nội địa và không bị
tách biệt như cách đối xử
với đàn bà thành thị.
Những người lãnh đạo
Hồi giáo theo phái Si nhấn mạnh đến
quyền của người đàn bà
trong chuyện tham gia tiến trình chính trị,
dính líu đến hoạt động
kinh tế độc lập, và được
tự do trong chuyện chọn chồng.
Hôn nhân được
coi như một bổn phận, chuyện ly dị
khá hiếm hoi và bị bêu xấu.
Chuyện đa thê được cho phép
nếu tất cả những người
vợ được đối xử
công bằng. Tuy nhiên, thật là chuyện
bất thường và hiếm hoi xảy
ra khi một người đàn ông
cảm thấy bị bắt buộc phải lấy
người góa phụ vợ của
ông anh trai vừa mới qua đời.
Cách thông thường là lấy
họ hàng thân thiết, dù những
gia đình cố gắng biến những
tài sản xã hội thành nhiều
dạng khác nhau trong chuyện hôn phối.
Hôn nhân giữa họ hàng với
nhau chiếm tỷ lệ khá cao.
Những cuộc tiếp
xúc đầu tiên thường được
tiến hành bí mật bởi phía
phụ nữ nhằm tránh sự từ
chối công khai. Rồi hai gia đình thương
thảo về tương lai tài chánh của
đôi lứa và quyết định
về chuyện quần áo tư trang, sự
đòi hỏi của cô dâu và
của hồi môn. Bước kế tiếp
là sự hứa hôn chính thức,
trong đó những phụ nữ họ
hàng của chú rể mang quà đến
nhà cô dâu và những món
ăn ngọt được dùng. Ðám
cưới là một cuộc vui kéo
dài ba ngày được gia đình
chú rể trang trải trong đó hôn
thú được ký và cặp
vợ chồng được mang lại
gần nhau. Rồi cô dâu được
mang đến nhà mới của cô
trong một cung cách huy hoàng.
Theo truyền thống,
một gia đình căn bản bao gồm
một người đàn ông, vợ,
những con trai với người
phối ngẫu của chúng và trẻ
con, và những cô con gái chưa
lấy chồng. Khi người đàn
ông chết, những đứa con
trai có thể quyết định tiếp
tục ở chung với nhau hay chia tài
sản gia đình ra. Quyền lực giữa
những anh em trai được căn
cứ trên khả năng, kỹ năng
làm ăn, và uy tín cá nhân
hơn là tuổi tác. Ðôi khi một
anh em trai hỏi về phần chia của gia đình
dành cho anh ta và xa rời đám
đông trong nhà trong khi người
cha vẫn còn sống. Chuyện hòa thuận
trong chuyện cư trú không có nghĩa
là cùng chungï chia sẻ những sự
tiêu xài trong gia đình.
Theo lý thuyết,
tất cả những anh em trai đều
bình đẳng, nhưng để tránh
chuyện chia năm xẻ bảy tài sản
gia đình, những anh em trai có thể
quyết định cùng sở hữu
chung hay chia chác tài chánh với
nhau. Trái với luật Hồi giáo,
đàn bà không được
thừa hưởng đất đai,
bất động sản hay thú vật nuôi.
Tất cả những
nhóm truy tìm nguồn gốc từ
phía đàn ông. Mỗi nhóm bộ
tộc công bố một người đàn
ông làm tổ tiên chung và sau đó
chia thành những bộ tộc phía dưới,
phe cánh, và gia đình. Bảng gia phả
thiết lập sự thừa kế tài
sản, những ràng buộc chung, và
tạo nên cảm giác đoàn kết.
Những tranh cãi về đàn bà,
đất đai, và tiền bạc có
thể sinh ra những tranh chấp đẫm
máu trong gia đình. Hệ thống bộ
tộc đặc biệt được phát
triển giữa những người
Pashtuns. Giá trị chính của luật lệ
bộ tộc của họ là lòng mến
khách và sự trả thù. Nhiều
cư dân của A phú hãn không thuộc
về một bộ tộc nào hay chỉ có
một sự liên kết lỏng lẻo
mà thôi. Tình láng giềng và
những liên hệ xã hội khác,
thường được củng cố
thêm bằng hôn phối, có thể
mạnh mẽ hơn là quan hệ họ hàng
mở rộng.
Trẻ con thường
được cột chặt vào trong nôi
bằng gỗ có một cái rảnh thoát
nước tiểu hay được mẹ
cột vào người bằng một cái
khăn. Chúng có thể được
mẹ nuôi bằng sữa mẹ trong vòng
hai năm nhưng chuyện bỏ sữa xảy
đến khá bất thình lình. Trẻ
được trông coi bởi một
nhóm đông đàn bà họ
hàng. Dù được bao bọc bởi
sự thương yêu, nhưng trẻ con học
được rất sớm rằng
không ai sẽ xen vào khi chúng khóc
hay bị đau. Người lớn không
dính vào những trò chơi của
trẻ con, vốn là những trò chơi
có thể mạnh bạo. Sự trừng
phạt bằng đòn đánh vào
thân thể được áp dụng,
dù cha mẹ có khuynh hướng chiều
chuộng đối với con nhỏ. Trẻ
con di chuyển tự do từ phần dành
cho đàn bà trong nhà đến
phần tiếp khách và học hỏi
cách sống theo sự bố trí, phân
chia nhóm.
Sự kính trọng
và tuân lời những người
lớn tuổi là những giá
trị quan trọng, nhưng sự độc
lập, sáng kiến cá nhân, và
sự tự tin cũng được
ca ngợi. Buổi lễ quan trọng nhất
đánh dấu sự lớn lên
của một bé trai là chuyện cắt
da quy đầu, thường là vào
lúc bảy tuổi. Trẻ trai được
dạy dỗ rất sớm về nhiệm
vụ về chuyện phải vồn vã và
lo lắng cho khách cũng như trong nom gia súc
hay cửa hàng, trong khi đó trẻ
gái bắt đầu giúp mẹ chúng
ngay từ lúc chúng có thể đứng
được. Cả hai đều được
dạy những giá trị của sự
danh dự và xấu hổ cùng phải
học cách khi nào tỏ bày niềm
hãnh diện và khi nào nên giữ
sự khiêm tốn.
Mức độ
số dân biết đọc khá thấp,
và năm 1988, 88 % dân số người
lớn không nhận được
một nền học vấn chính thức.
Chỉ có 5 % trẻ con có một nền
giáo dục sơ cấp, với sự
khác biệt nhiều giữa phái nam
và phái nữ. Dân từ nước
A phú hãn phải du lịch ra nước
ngoài để có thể tiếp tục
học cao hơn. Dù sự giáo dục
được quý trọng, không có
một tương lai nghề nghiệp nào dành
cho những người có học, ngoại
trừ làm việc cho một văn phòng
quốc tế hay một tổ chức phi chính
phủ.
Những người
trẻ gọi những người già
không bằng tên mà bằng chức
vụ. Người đàn ông không
gọi người vợ bằng tên
của bà ta mà gọi bà là " mẹ
của con tôi " . Những tên họ gia
đình không được gọi
thường, nhưng biệt danh ( nicknames) được
dùng thường xuyên. Những
từ trong họ thường dùng để
biểu lộ tình bạn hay sự kính
trọng. Sự mến khách cũng là
một giá trị văn hóa quý báu.
Khi dọn thức ăn ra, chủ nhà đợi
đến khi khách bắt đầu ăn
mới ăn. Khi dĩa đồ ăn
hết sạch, khách xin phép rời
nhà trừ phi họ ở lại qua
đêm.
Khi gặp nhau, hai người
đàn ông bắt tay nhau rồi đặt
bàn tay phải vào ngực. Sự
va chạm trực tiếp thân thể phải
tránh khi đàn ông đàn bà
gặp nhau. Nếu họ không trông thấy
nhau trong một thời gian dài, bạn bè
và họ hàng gia quyến ôm, hôn,
và nói những câu lịch sự
với nhau. Khi có người bước
vào phòng, mọi người đứng
dậy và chào đón đầy
đủ. Khi ngồi xuống những câu
chào đón được trao đổi
thêm. Hỏi những câu hỏi truy tìm
sự thật hay đòi hỏi cái
gì đó quá cụ thể trong cuộc
đối thoại được coi là
vô phép. Ðể diễn tả tình
thân mến, theo phong tục thì có quyền
phàn nàn, có khi cay đắng, về
chuyện không nhận được bất
kỳ tin tức nào của nhau.
Dù có những
sự khác biệt trong sự liên kết,
phái Xuma và phái Si vẫn công nhận
quyền lực của kinh Koran và kính
trọng năm nguyên tắc trụ cột chính
của Hồi giáo. Tuy nhiên, những
sự liên hệ của những hội
viên của những trường phái
tôn giáo khác nhau có vẻ xa cách
và gay cấn. Phái xufi ( Sulfism) là một
trường phái diễn tả quan trọng
của lòng mộ đạo. Nó đại
diện cho khuynh hướng thần bí của
Hồi giáo và nhấn mạnh đến
cảm xúc cùng sự cam kết cá
nhân dựa trên sự chấp nhận
điều lệ của niềm tin. Nhiều
học giả đạo Hồi nhìn chuyện
này với sự nghi ngờ. Một
hình thức mạnh mẽ khác của
phái Xuni được những hành
khất lang thang bày tỏ. Những hình
thái siêu nhiên như thiên thần,
thần, ma, và tinh thần được
tin tưởng là tồn tại. Ðọc
thần chú và cầu kinh bảo vệ
người khỏi bị tà ma làm
hại. Dù bị những chức sắc
tôn giáo chính thống phê phán,
những sự thực hành này
được viên chức Hồi
giáo trong làng.
Có hai loại người
thực hành tôn giáo : thứ
nhất là những học giả, mà
sức mạnh dựa trên kiến thức,
và những vị thánh, quyền lực
đến từ khả năng chuyển
những sự ban ơn của Thượng
đế đến cho con người.
Ở phái Xuni, không có tăng lữ
chính thức, trong khi phái Si có cấp
bậc chức sắc đàng hoàng.
Những chức sắc trong làng được
giáo dục bằng một nền giáo
dục đức tin vốn cho phép họ
dạy trẻ con và dẫn dắt những
buổi cầu nguyền ngày thứ sáu.
Nhiều vị thánh và cấp lãnh
đạo phái Si công bố họ là
hậu duệ từ Ðấng Tiên Tri.
Những người theo đạo thăm
viếng và hỏi họ về những
điều chỉ dẫn và sự ban
ơn. Trong chiến tranh, có một loại lãnh
đạo tôn giáo xuất hiện: đó
là giới quân nhân trẻ theo đạo
Hồi, những người này thách
thức quyền lực của những
người thực hành theo truyền
thống cũ và đề nghị về
một sự nhận thức chính trị
về tôn giáo nhiều hơn.
Quanh năm, dân chúng
tụ tập ở đền thờ
vào những ngày thứ sáu.
Nhiều làng có chỗ cầu nguyện,
và nơi này dùng để đón
những du khách luôn. Mộ của những
chức sắc tôn giáo nổi tiếng
trở thành đền thờ được
dân địa phương thăm viếng.
Họ đóng một vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội của
cộng đồng làng thôn và lý
lịch địa phương. Những cuộc
hành hương xa cho phép phụ nữ
ra khỏi nhà, tụ tập thành nhóm
để chuyện trò và gây tình
thân ái giữa người với
nhau trong xã hội.
Có hai loại lễ
tôn giáo chính. Ðó là Id alKabir
và Id-e Qorban ( Ngày lễ vĩ đại
và ngày lễ của nạn nhân) dùng
để tưởng nhớ sự
hy sinh của Abraham ở vào thời
điểm cuối của chu kỳ hành
hương hàng năm về thánh địa
Mecca. Nhiều gia đình giết một con
cừu và phân phát một số
phần thịt cho người nghèo. Buổi
lễ nhỏ ( Id al-Firt) hay lễ Ramadan ( Id-e Ramadan)
đánh dấu phần cuối của tháng
nhịn ăn và đó là thời
kỳ hân hoan trong đó họ hàng
và bạn bè thăm viếng nhau. Tháng
nhịn ăn Ramadan là một biến cố
tôn giáo và xã hội quan trọng.
Trong tháng Muharram ( tháng đầu theo lịch
âm lịch Hồi giáo ), Phái Si tưởng
nhớ cái chết của người
cháu của Muhammad. Ðây là thời
gian tiếc thương và đau buồn.
Mọi người tụ họp lại để
nghe một chuyện tử vì đạo nào
đó, khóc lóc và đấm
vào ngực. Ngày tưởng niệm
cái chết hàng năm của Husain mới
là cao điểm. Một cuộc diễu hành
được tổ chức,và nhiều
thanh niên trẻ dùng dây xích quất
và dùng dao nhọn đâm vào người.
Những dịp lễ lạc xã hội
quan trọng khác có màu sắc tôn
giáo bao gồm lễ sinh nhật, đám
cưới, đám tang, chuyện cắt
da qui đầu cho bé trai, chuyện ăn uống
được những người
giàu lo liệu.
Người chết
được chôn cất trong một miếng
vải liệm. Ở miền quê, hầu
hết những ngôi mộ chỉ là
một đống đá đơn giản
không có tên. Những người
giàu có hơn có thể dựng
một bia đá trên mộ có viết
lời cầu nguyện. Trong vòng ba ngày,
những họ hàng thân thiết của
người qua đời mở cửa
để đón những sự chia
buồn. Bốn mươi ngày sau cái
chết, họ hàng và những bạn
bè thân gặp gỡ nhau một lần
nữa, rồi đi thăm mộ, và
cầu nguyện. Sau một năm, một buổi
lễ được tổ chức để
đánh dấu sự chấm dứt
của thời kỳ thương tiếc.
Nhiều người tin rằng nếu đám
tang không được làm đúng
cách, bóng ma của người chết
sẽ trở lại hành hạ người
sống.
Vì những phương
tiện y khoa còn hạn chế, người
dân chỉ còn dựa vào những
phương cách điều trị cổ
truyền vốn dùng đến dược
thảo và những sản phẩm lấy
từ súc vật. Mỗi sự đau
ốm thể chất đều được
đánh giá như là nóng hay lạnh,
và sự trị bệnh tùy thuộc
vào chuyện tái lập sự quân
bình cho cơ thể bằng cách cho ăn
những thực phẩm có những
đặc tính trái ngược nhau.
Một cách khác để chữa
bệnh là cam kết đi hành hương
tới một ngôi đền. Ðôi
khi, những người đi hành
hương đem một ít cát ở
nơi thiêng liêng về bỏ trong trà
để uống hay giữ một mảnh
nhỏ từ bảng chữ nằm trên
mộ. Có vài con suối được
công nhận là thiêng liêng, và
nước nơi đây được
tin là có tác dụng chữa bệnh.
Những vần thơ kinh Koran bọc vải
được may vào áo quần hay
mũ nón để bảo vệ người
bệnh khỏi sự xoi bói của quỷ
hay dùng như một phương thức
để điều trị một chứng
bệnh.
Lễ Jashn, những
ngày lễ kỷ niệm đất nước
dành được độc lập từ
tay người Anh vào năm 1919 cũng
là dịp để nhà nước
công bố những chuyện cải tổ.
Những cuộc diễu hành và những
trận thi đua thể thao được
tổ chức khắp nơi. Ngày đầu
năm ( 21 tháng 3) được chọn
từ thời tiền Hồi giáo
( pre-Islamic period). Theo lịch Ba-tư cũ, đó
là lễ hội tốt tươi chào
đón mùa Xuân. Ðó cũng
là thời gian để cho họ hàng
và bạn bè thăm viếng nhau và
mang quà cho trẻ con.
Phe Taliban cấm những
nghệ thuật phô bày. Văn hóa cao
được giữ nguyên sức
sống ở Pakistan và ở phương
Tây, những người tỵ nạn
đã thiết lập những chu kỳ
văn hóa bao gồm chuyện tổ chức
hòa nhạc, triển lãm ( tranh, hình chụp),
thi thơ, và những khóa viết
chữ đẹp, hội họa, âm nhạc,
và thi ca. Một số người có
những thư viện tương đối
chứa những phim tài liệu và
họ rán đẩy mạnh chuyện trình
diễn sân khấu.
Tất cả những
học giả đã rời đất
nước, cho nên không tạo dựng
được một nền học vấn
cao hơn cũng như không có sự
nghiên cứu khoa học tân tiến ngày
nay.
Lawndale, một sáng
mùa Ðông đìu hiu đầu
năm 2002
Trần Viết
Ðại Hưng
|