PHẬT
THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG
NGHIÊM THANH TỊNH
B̀NH
ĐẲNG GIÁC KINH
Nguyên
Hán bản: Ngài HẠ LIÊN
CƯ (hội tập)
TÂM
TỊNH chuyển ngữ
---
o0o ---
PHẨM
MỘT
PHÁP
HỘI THÁNH CHÚNG
Tôi nghe như
vầy: Một thời Đức Phật, tại
thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, cùng mười
hai ngàn vị Đại Tỳ Kheo, cùng nhau có
mặt, tất cả đều là, những
bậc Đại Thánh, thần thông đă đạt.
Tên các ngài là, Tôn
giả Kiều Trần Như, Tôn giả Xá
Lợi Phất, Tôn giả Đại Mục
Kiền Liên, Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả A
Nan... đều là thượng thủ. C̣n có các
vị, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn
Thù, Bồ Tát Di Lặc, tất cả Bồ Tát,
trong Hiền kiếp này, cùng tới tập
hội.
PHẨM
HAI
ĐỨC
TÔN PHỔ HIỀN
Lại c̣n có ngài
Hiền Hộ vân vân... mười sáu chánh sĩ,
đó là: Bồ Tát Thiện Tư Duy, Bồ Tát
Huệ Biện Tài, Bồ Tát Quán Vô Trụ,
Bồ Tát Thần Thông Hoa, Bồ Tát Quang Anh,
Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Trí Thượng,
Bồ Tát Tịch Căn, Bồ Tát Tín Huệ,
Bồ Tát Nguyện Huệ, Bồ Tát Hương
Tượng, Bồ Tát Bảo Anh, Bồ Tát Trung
Trụ, Bồ Tát Chế Hạnh, Bồ Tát
Giải Thoát, đều là thượng thủ.
Cùng nhau tu theo, đức hạnh của ngài,
Phổ Hiền Đại sĩ, đầy đủ
vô số, vô lượng hạnh nguyện, trú
trong tất cả, các pháp công đức,
dạo khắp mười phương, hành
quyền phương tiện, khiến cho chúng
sinh, vào Phật Pháp Tạng, rốt ráo bờ giác.
Nguyện trong vô lượng
thế giới, thành Đẳng Chánh Giác.
Ĺa cung Đâu
Suất, giáng sinh cung vua, bỏ ngôi xuất gia,
khổ hạnh học đạo, thị
hiện như thế, thuận theo thế gian,
lấy sức định huệ, hàng phục ma
oán, được Pháp Vi Diệu, thành Tối
Chánh Giác.
Người
trời quy ngưỡng, thỉnh Chuyển Pháp
Luân, thường dùng Pháp Âm, giác ngộ
thế gian.
Phá thành phiền
năo, lấp hố dục vọng, tẩy
sạch cấu ô, sáng sạch thanh tịnh.
Độ tận chúng
sinh, tuyên nói diệu lư, tích trữ công đức,
chỉ thị phước điền, lấy các
thuốc pháp, chữa trị ba khổ.
Thăng bậc quán
đảnh, thọ kư Bồ Đề, v́ dạy
Bồ Tát, làm A Xà Lê, thường tập tương
ưng, vô biên các hạnh, thành thục vô
số, căn lành Bồ Tát, được vô lượng
Phật, đồng nhau hộ niệm.
Trong các cơi
Phật, đều hay thị hiện, như
ảo sư giỏi, hiện các tướng
lạ, trong mỗi tướng đó, thật
chẳng thể được, các Bồ Tát này,
cũng lại như thế.
Thông các Pháp tánh,
rơ tướng chúng sinh, cúng dường Chư
Phật, khai đạo quần sinh, hóa hiện
thân kia, gióáng như điện chớp, xé lưới
ma kiến, cởi dây triền phược, siêu
vượt Thanh Văn và Bích Chi Phật,
nhập pháp môn Không, Vô Tướng, Vô
Nguyện, khéo bày phương tiện, hiển rơ
ba Thừa.
Với căn trung
hạ, thị hiện diệt độ. Đắc
vô sinh diệt, các Tam Ma Địa, các môn Tổng
Tŕ, tùy thời ngộ nhập, Hoa Nghiêm Tam
Muội, đầy đủ tổng tŕ, trăm
ngàn tam muội, trụ sâu thiền định,
thấy hết tất cả, vô lượng chư
Phật. Trong một khoảnh niệm, ṿng các cơi
Phật.
Được
Phật biện tài, trụ hạnh Phổ
Hiền, khéo hay phân biệt, ngôn ngữ chúng
sinh, khai hóa chỉ bày, bờ mé chân thật, vượt
hơn các pháp, sở hữu thế gian.
Tâm thường
chân thật, trong đạo độ đời,
đối tất cả pháp, tùy ư tự
tại, v́ chúng hữu t́nh, t́nh nguyện làm
bạn, thọ tŕ sâu rộng, Tạng Pháp Như
Lai, ǵn giữ giống Phật, thường
khiến không đoạn.
Phát tâm đại
bi, thương xót chúng sinh, diễn nói đại
từ, trao truyền Mắt Pháp, đóng bít
đường ác, mở toang cửa lành, đối
với chúng sinh, xem như chính ḿnh, đảm
trách cứu giúp, độ qua bờ giác.
Thảy được
chư Phật, vô lượng công đức, trí
huệ sáng suốt, không thể nghĩ bàn, các
Bồ Tát lớn, đồng như thế đó,
vô lượng vô biên, cùng thời tới
hợp.
Lại có năm
trăm vị Tỳ Kheo Ni, bảy ngàn thiện
nam, năm trăm thiện nữ, chư Thiên
Dục Giới và trời Sắc Giới, các
vị Phạm Chúng, đều dự đại
hội.
PHẨM
BA
DUYÊN
KHỞI ĐẠI GIÁO
Khi ấy Thế Tôn,
oai quang rạng rỡ, như ánh vàng rực,
lại như gương sáng, ảnh thông ra ngoài,
hiện ánh sáng lớn, biến trăm ngàn
lần.
Tôn giả A Nan,
tức thời tự nghĩ, hôm nay Thế Tôn,
thân sắc vui nhuận, các căn thanh tịnh, nét
mặt lộng lẫy, cơi báo trang nghiêm, từ
xưa tới nay, chưa từng trông thấy,
hoan hỷ chiêm ngưỡng, sinh tâm hy hữu,
tại chỗ đứng dậy, trịch bày
vai phải, quỳ gối chắp tay, bạch
với Phật rằng:
“Hôm nay
Thế Tôn, vào Đại Tịch Định, trụ
Pháp kỳ đặc, trụ hạnh Đạo sư,
chỗ chư Phật trú, là đạo tối
thắng, quá hiện vị lai, Phật Phật
nhớ nhau. Thế Tôn v́ nhớ, chư Phật
quá khứ, chư Phật vị lai, hay nhớ chư
Phật hiện tại phương khác? Cớ
sao oai thần, hiển bày chiếu diệu, đoan
tướng sáng ngời, thù diệu như
thế? Nguyện Thế Tôn v́ chúng con tuyên nói”.
Bấy giờ
Thế Tôn, bảo A Nan rằng, Lành thay! Lành thay!
Ông v́ thương xót, muốn làm lợi
lạc, cho chúng hữu t́nh, hay hỏi nghĩa lư,
vi diệu như thế. Nay lời ông hỏi, công
đức thù thắng, hơn việc cúng dường,
chư vị La Hán, và Bích Chi Phật, trong
một thiên hạ; công đức hơn cả,
trên ngàn vạn lần, bố thí nhiều
kiếp, cho Trời và Người, cho cả các
loài, ḅ bay cựa động. Tại v́ sao
thế? V́ trong tương lai, dân các cơi
trời, tất cả hàm linh, nhân lời ông
hỏi, mà đặng độ thoát.
Này ông A Nan! Như
Lai đem ḷng Đại Bi vô tận, thương xót
ba cơi, thị hiện ra đời, mở sáng Đạo
Giáo, muốn cứu quần sinh, ban lợi chân
thật, khó gặp khó thấy, như hoa Ưu
đàm, hy hữu xuất hiện, nay lời ông
hỏi, đặng nhiều lợi ích.
A Nan nên biết,
Như Lai Chánh Giác, trí ấy khó lường, không
có chướng ngại, trong một khoảnh
niệm, có thể trú vào, vô lượng ức
kiếp. Thân cùng các căn, không tăng không
giảm, tại v́ sao thế? Định huệ Như
Lai, thông suốt rốt ráo, đối tất
cả pháp, có thể đắc được,
tự tại tối thắng.
A Nan hăy nghe,
kỹ càng suy nghĩ, ta đang v́ ông, phân
biệt giải nói.
PHẨM
BỐN
NHÂN
ĐỊA PHÁP TẠNG
Phật bảo A
Nan, quá khứ vô lượng, chẳng thể
nghĩ bàn, nhiều kiếp lâu xa, có Phật ra
đời, tên Thế Gian Tự Tại Vương
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở
đời giảng dạy, bốn mươi hai
kiếp, lúc đó Ngài v́, chư Thiên nhân dân, nói
kinh giảng đạo.
Có Đại
quốc chủ, tên Thế Nhiêu Vương, nghe
Phật nói pháp, vui mừng khai giải, t́m phát
đạo ư, Vô thượng chân chính, bỏ nước
từ ngôi, hành hạnh Sa Môn, hiệu là Pháp
Tạng, tu Bồ Tát đạo, tài cao chí
xuất, với đời vượt khác. Tin
hiểu ghi nhớ, đều là bậc nhất.
Lại nữa c̣n
có, hạnh nguyện thù thắng, cùng sức
niệm huệ, tăng thượng tâm kia,
vững chắc bất động, tu hành tinh
tấn, khó ai sánh kịp. Liền tới chỗ
Phật, quỳ gối chắp tay, hướng
Phật đảnh lễ, nói kệ tán Phật,
phát nguyện rộng lớn:
Sắc Như
Lai đoan trang vi diệu,
Tất
cả thế gian chẳng sánh bằng.
Hào quang vô
lượng mười phương chiếu,
Nhật,
nguyệt, hỏa, châu thảy ẩn mờ.
Thế Tôn
hay diễn một âm thinh,
Hữu t́nh
mỗi mỗi tùy loài giải.
Lại hay
thị hiện diệu sắc thân,
Khắp
khiến chúng sinh tùy loài thấy.
Nguyện
con đắc tiếng Phật thanh tịnh,
Pháp âm vang
khắp vô biên cơi,
Rộng
truyền cửa Giới, Định, Tinh Tấn.
Thông đạt
thâm sâu pháp nhiệm mầu.
Trí huệ
lớn rộng sâu như biển,
Nội tâm
thanh tịnh, sạch trần lao,
Siêu vượt
vô biên đường ác thú,
Nhanh đến
bờ rốt ráo Bồ Đề.
Vô minh tham
giận vĩnh hằng không,
Sức Chánh
định, Tội tiêu Hoặc tận.
Cũng như
vô lượng Phật quá khứ,
Làm Đạo
sư lớn của quần sinh,
Hay cứu hàm
linh chư thế gian,
Sinh, già,
bệnh, chết, chúng khổ năo.
Thường
hành bố thí, tŕ giới, nhẫn,
Tinh tấn,
định, huệ sáu Ba La,
Hữu t́nh
chưa độ làm được độ,
Kẻ
được độ rồi khiến thành
Phật.
Ví như cúng
dường hằng sa Thánh,
Chẳng
bằng vững mạnh cầu Chánh Giác.
Nguyện
khi an trú trong Tam Muội,
Thường
phóng hào quang chiếu chúng sinh,
Cảm
ứng sâu xa chỗ thanh tịnh,
Trang nghiêm
thù thắng chẳng đâu bằng.
Luân hồi
sáu nẻo khắp quần sinh,
Chóng sinh cơi
con thọ an lạc,
Thường
đem ḷng từ cứu hữu t́nh
Độ
tận vô biên khổ chúng sinh.
Hạnh
của con quyết định, vững bền,
Duy Trí
huệ Phật hay chứng tri,
Ví thân
chẳng đặng ĺa chư khổ,
Tâm
nguyện con hằng chẳng thối lui.
PHẨM
NĂM
CHÍ
TÂM TINH TẤN
Tỳ Kheo Pháp
Tạng, nói xong kệ này, bạch Phật
rằng con v́ đạo Bồ Tát, nay chí tâm phát,
Vô Thượng Chánh Giác, chọn nguyện làm
Phật, ắt khiến như Phật, nguyện
Phật v́ con, rộng nói kinh pháp, con sẽ
phụng tŕ, như pháp tu hành. Cần khổ
dứt trừ, cội rễ sinh tử, chóng thành
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Muốn
khiến cho con, đến lúc thành Phật, trí
huệ sáng suốt, chỗ ở cơi nước,
danh từ giáo thọ, mười phương
đều nghe. Chư thiên nhân dân, các loài giun
trùng, sinh về nước con, đều làm
Bồ Tát. Con lập nguyện này, đều thù
thắng hơn vô số cơi Phật, được
không Thế Tôn?”.
Phật Thế
Gian Tự Tại Vương liền v́ Pháp
Tạng Tỳ Kheo, mà diễn nói kinh: “Ví như
biển lớn, có người đong lường,
trải vô số kiếp, vét cùng tận đáy.
Như thể một người, chí thành
cầu đạo, tinh tấn không ngừng,
tất nhiên đặng quả, nguyện nào
chẳng thành? Ông tự suy nghĩ, tu phương
tiện nào, có thể thành tựu, cơi Phật
trang nghiêm. Theo đó mà tu, ông nên tự biết,
thanh tịnh cơi Phật, ông nên tự nhiếp”.
Pháp Tạng
bạch Phật: “Nghĩa ấy sâu rộng,
chẳng phải cảnh giới, chỗ con
chứng được. Chỉ nguyện Như
Lai, Ứng Chánh Biến Tri, rộng nói vô lượng,
cơi Phật vi diệu, nếu con được
nghe, các Pháp như vầy, suy nghĩ tu tập,
thệ nguyện viên măn”.
Phật Thế
Gian Tự Tại Vương biết Pháp
Tạng cao minh, chí nguyện sâu rộng, liền
v́ tuyên nói, hai trăm mười ức, các cơi
Phật độ, đức tướng nghiêm
tịnh, rộng lớn viên măn, ứng hợp tâm
nguyện, đều hiện rơ ràng, nói thời
pháp này, trải ngàn ức năm.
Bấy giờ Pháp
Tạng, nghe Phật nói rồi, nghiệm
thấy tỏ tường, phát khởi các
nguyện, thù thắng vô thượng. Đối các
chư thiên, con người thiện ác, cơi nước
thô diệu, tư duy rốt ráo, liền
được nhất tâm, chọn các điều
muốn, kết thành nguyện lớn. Siêng năng
cầu tiến, cung kính thận trọng, hết
ḷng ǵn giữ, tu tập công đức, đầy
đủ năm kiếp. Trong hai mươi
mốt câu chi cơi Phật, các việc công đức,
trang nghiêm thù thắng, thông đạt rơ ràng,
như một cơi Phật, chỗ nhiếp nước
Phật, siêu hơn cơi khác. Nhiếp thọ
đắc rồi, Pháp Tạng tới chỗ,
Thế Tự Tại Vương, cúi đầu
dưới chân, nhiễu Phật ba ṿng, đứng
lại chắp tay. Bạch Thế Tôn rằng:
“Con đă thành tựu, trang nghiêm nước
Phật, các hạnh thanh tịnh”.
Phật bảo:
“Lành thay! Nay thật phải lúc, ông nên nói
đủ, khiến đại chúng vui. Cũng
khiến đại chúng, nghe xong pháp này,
được thiện lợi lớn, hay đến
cơi Phật, tu tập nhiếp thọ, đầy
đủ viên măn, vô lượng nguyện
lớn.
PHẨM
SÁU
PHÁT
ĐẠI THỆ NGUYỆN
Pháp Tạng
bạch rằng: “Cúi mong Thế Tôn, Đại
từ nghe xét, nếu con chứng đặng, Vô
Thượng Bồ Đề, thành bậc Chánh Giác,
cơi Phật của con, đầy đủ vô lượng,
chẳng thể nghĩ bàn, công đức trang
nghiêm, không có địa ngục, ngạ quỷ
cầm thú, ḅ bay máy động, hết thảy
chúng sinh, từ Diệm Ma La, trong ba đường
ác, sinh vào cơi con. Thọ giáo pháp con, thảy
đều đắc đặng, quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng
c̣n đọa lạc, vào ba đường ác,
được như nguyện này, con mới thành
Phật, bằng không như nguyện, chẳng
thành Chánh Giác.
(1.- Nguyện trong
nước không có ác đạo. 2.- Nguyện không
đọa ba đường ác)
Lúc con làm Phật,
thế giới mười phương, hết
thảy chúng sinh, khiến sinh nước con,
đầy đủ thân sắc, chân kim vàng tía,
băm hai vẻ đẹp, tướng đại
trượng phu, đoan trang nghiêm chánh, tinh
khiết thanh tịnh, đều đồng
một loại. H́nh mạo nếu khác, có
tốt có xấu, con thề quyết không, ở
ngôi Chánh Giác.
(3.- Nguyện thân
có sắc vàng ṛng. 4.- Nguyện có ba mươi
hai tướng tốt. 5.- Nguyện thân không sai
biệt)
Khi con làm Phật,
tất cả chúng sinh, sinh vào nước con,
đều tự biết thấu, thiện ác
đă làm, vô lượng đời trước,
có thể nh́n suốt, nghe thông biết tận,
sự việc ở trong, mười phương
ba đời, không đặng nguyện này, không
thành Chánh Giác.
(6.- Nguyện có túc
mạng thông. 7.- Nguyện có thiên nhăn thông. 8.-
Nguyện có thiên nhĩ thông)
Lúc con làm Phật,
tất cả chúng sinh, sinh về nước con,
thảy đều chứng được, trí
tha tâm thông. Nếu chẳng biết được,
tâm nguyện chúng sinh, ức na do tha, trăm ngàn
cơi Phật, con thề quyết không, ở ngôi
Chánh Giác.
(9.- Nguyện
được tha tâm thông)
Lúc con làm Phật,
tất cả chúng sinh, sinh về nước con,
thảy đều đắc được,
thần thông tự tại, Ba La Mật Đa.
Nếu trong khoảnh niệm, không thể siêu vượt,
ức na do tha, trăm ngàn cơi Phật, đi giáp
khắp nơi, cúng dường chư Phật,
con thề quyết không, ở ngôi Chánh Giác.
(10.- Nguyện
được thần túc thông. 11.- Nguyện giáp
khắp cúng dường chư Phật)
Lúc con làm Phật,
tất cả chúng sinh, sinh về nước con,
xa ĺa phân biệt, sáu căn tịch tịnh,
nếu chẳng quyết định, thành
bậc Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn,
con thề quyết không, ở ngôi Chánh Giác.
(12.- Nguyện
quyết định thành bậc Chánh Giác)
Khi con làm Phật,
quang minh vô lượng, chiếu khắp mười
phương, vượt hơn quang minh, của
thảy chư Phật, vượt hơn ánh sáng,
mặt trời mặt trăng, ngàn vạn
ức lần. Nếu có chúng sinh, thấy
được quang minh, chiếu chạm thân ḿnh,
đều được an lạc, tâm từ hành
thiện, sinh về nước con. Nếu không
như nguyện, không thành Chánh Giác.
(13.- Nguyện ánh
sáng vô lượng. 14.- Nguyện chạm quang
minh được an lạc)
Khi con làm Phật,
thọ mạng vô lượng, nước con vô
số, Thanh Văn Trời Người, thọ
mạng chư vị, cũng đều vô lượng.
Giả sử như có, ba ngàn đại thiên,
thế giới chúng sinh, đều thành Duyên Giác,
trong trăm ngàn kiếp, cùng nhau tính đếm,
nếu biết số lượng, không thành Chánh
Giác.
(15.- Nguyện
thọ mạng vô lượng. 16.- Nguyện Thanh
Văn vô số)
Lúc con làm Phật,
mười phương thế giới, trong vô lượng
cơi, vô số chư Phật, nếu không xưng
tán, danh hiệu của con, và nói công đức,
cơi nước thuần thiện, con thề không
trụ, ở ngôi Chánh Giác.
(17.- Nguyện
được chư Phật xưng tán)
Lúc con làm Phật,
chúng sinh mười phương, nghe danh hiệu
con, chí tâm tin vui, có được căn lành, tâm
tâm hồi hướng, nguyện sinh nước
con, cho đến mười niệm, nếu không
được sinh, con thề quyết không
giữ ngôi Chánh Giác, duy trừ ngũ nghịch,
phỉ báng chánh pháp.
(18.- Nguyện mười
niệm tất văng sinh)
Lúc con làm Phật,
mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu
con, phát tâm Bồ Đề, tu các công đức,
cung kính thực hành, sáu Ba La Mật, kiên cố
bất thoái, lại lấy tất cả,
thiện căn hồi hướng, nguyện sinh
nước con, nhất tâm niệm con, ngày đêm
không dứt, đến khi lâm chung, con và Bồ
Tát, hiện tiền nghinh tiếp, trải qua
khoảnh khắc, liền sinh cơi con, thành
tựu A Duy Việt Trí Bồ Tát, nếu không như
vậy, không thành Chánh Giác.
(19.- Nguyện nghe
danh phát tâm. 20.- Nguyện lâm chung tiếp dẫn)
Lúc con làm
Phật, mười phương chúng sinh, nghe
danh hiệu con, hằng nhớ nước con, phát
tâm Bồ Đề, kiên cố bất thối,
trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng,
muốn sinh Cực Lạc, thảy đều
toại nguyện. Nếu các đời trước,
vốn tạo ác nghiệp, nghe danh hiệu con,
liền tự sám hối, v́ đạo làm lành,
thọ tŕ kinh giới, nguyện sinh cơi con, đến
khi mạng chung, không c̣n đọa lạc, vào
ba đường ác, liền sinh nước con,
nếu không được vậy, không thành Chánh
Giác.
(21.- Nguyện sám
hối được văng sinh)
Lúc con làm Phật,
cơi nước của con, không có người
nữ. Nếu người nữ nào, nghe danh
hiệu con, được tin thanh tịnh, phát tâm
Bồ Đề, nhàm chán thân nữ, nguyện sinh
nước con. Sau khi mạng chung, hóa thành thân
nam, tới cơi nước con. Mười phương
thế giới, các loài chúng sinh, sinh vào nước
con, hoa sen hóa sinh, trong ao bảy báu. Nếu không
được vậy, không thành Chánh Giác.
(22.- Nguyện trong
nước không có ngươi nữ. 23.-
Nguyện nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam.
24.- Nguyện liên hoa hóa sinh)
Lúc con làm Phật,
chúng sinh mười phương, nghe danh hiệu
con, hoan hỷ tin vui, lễ bái cung kính, đem tâm
thanh tịnh, tu hạnh Bồ Tát, chư Thiên nhân
dân, thảy đều chí kính. Nếu nghe danh
con, sau khi mạng chung, sinh nhà tôn quư, đầy
đủ các căn, huân tu đều đặn,
phạm hạnh thù thắng, nếu không
được vậy, không thành Chánh Giác.
(25.- Nguyện Thiên
Nhân lễ kính. 26.- Nguyện văn danh đắc
phước. 27.- Nguyện tu thù thắng hạnh)
Lúc con làm Phật,
trong cơi nước con, không tên “Bất
Thiện”. Tất cả chúng sinh, sinh về cơi
con, đều đồng nhất tâm, trụ chánh
định tụ, vĩnh ly nhiệt năo, tâm
được mát mẻ, thọ hưởng vui
sướng, cũng như Tỳ Kheo, sạch
tận các lậu. Nếu c̣n khởi nghĩ,
tham thân chấp ngă, con thề quyết không,
ở ngôi Chánh Giác.
(28.- Nguyện nước
không có tên “Bất thiện”. 29.- Nguyện
trụ Chánh định tụ. 30.- Nguyện vui
như Tỳ kheo dứt sạch các lậu. 31.-
Nguyện không tham chấp thân)
Lúc con làm Phật,
sinh vào nước con, căn lành vô lượng,
đều được Kim Cang, Na La Diên thân, có
sức vững chắc, thân đảnh đều
có, quang minh chiếu diệu, được
sự thành tựu, tất cả trí huệ. Thu
hoạch vô biên, biện tài vô ngại. Khéo nói
các pháp, thâm mật bí yếu. Thuyết kinh hành
đạo, tiếng như chuông ngân. Nếu không
được vậy, không thành Chánh Giác.
(32.- Nguyện
được Na la diên thân. 33.- Nguyện quang
minh trí huệ biện tài. 34.- Nguyện khéo nói
pháp yếu)
Lúc con làm Phật,
tất cả chúng sinh, sinh về nước con,
ắt đến rốt ráo, nhất sinh bổ
xứ, trừ bản nguyện kia, v́ chúng sinh nên,
mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa tất
cả, các chúng hữu t́nh. Đều phát tín tâm.
Tu hạnh Bồ Đề. Hành đạo Phổ
Hiền. Mặc dù sinh ở, thế giới phương
khác, vĩnh ly đường ác, hoặc vui nói
pháp, hoặc vui nghe pháp, hoặc hiện thần
túc, tùy ư tu tập, đều được viên
măn. Nếu không được vậy, không thành
Chánh Giác.
(35.- Nguyện
nhất sinh bổ xứ. 36.- Nguyện giáo hóa tùy
ư)
Lúc con làm Phật,
sinh về nước con, thức ăn, y
phục, các loại cúng dường, theo ư
liền đến, đều được viên
măn. Mười phương chư Phật,
ứng niệm thọ nhận, các thứ cúng dường.
Nếu không được vậy, không thành Chánh
Giác.
(37.- Nguyện y
thực tự đến. 38.- Nguyện ứng
niệm thọ cúng)
Lúc con làm Phật,
vạn vật trong nước, nghiêm tịnh sáng
đẹp, h́nh sắc thù đặc, vi diệu
cùng cực. Không thể xứng lượng, các
chúng sinh kia, tuy đủ thiên nhăn, nếu hay nói
ra, các h́nh sắc kia, quang tướng danh số,
tuyên nói tất cả, con thề quyết không,
ở ngôi Chánh Giác.
(39.- Nguyện trang
nghiêm vô tận)
Lúc con làm Phật.
Trong nước vô lượng, cây sắc báu
cao, trăm ngàn do tuần. Cây cao Đạo tràng,
bốn trăm vạn dặm. Trong chúng Bồ Tát,
căn lành dẫu khuyết, cũng hay rơ
biết. Muốn thấy chư Phật, cơi nước
nghiêm tịnh. Thảy đều được
thấy, nơi hàng cây báu, như đài gương
sáng, soi thấy khuôn mặt. Nếu không
được vậy, không thành Chánh Giác. (40.-
Nguyện có vô lượng cây sắc báu. 41.-
Nguyện cây hiện cơi Phật).
Lúc con làm Phật.
Cơi Phật chỗ ở, rộng răi nghiêm
tịnh. Sáng sạch như gương. Chiếu
suốt mười phương, vô lượng
vô số, không thể nghĩ bàn, thế
giới chư Phật. Chúng sinh thấy
được, sinh tâm hy hữu. Nếu không
được vậy, không thành Chánh Giác.
(42.- Nguyện
chiếu suốt mười phương)
Khi con làm Phật,
dưới từ ḷng đất, trên đến
hư không, cung điện lầu các, ao nước
hoa cây, cơi nước có được, tất
cả vạn vật, đều do vô số, hương
báu hợp thành, hương ấy xông khắp,
thế giới mười phương. Chúng sinh
ngửi đặng, đều tu hạnh
Phật. Nếu không được vậy, không
thành Chánh Giác.
(43.- Nguyện hương
báu xông khắp).
Lúc con làm Phật,
cơi Phật mười phương, các chúng
Bồ Tát, nghe danh hiệu con, tức khắc
đạt được, thanh tịnh, giải
thoát, phổ đẳng tam muội. Các thâm
tổng tŕ, trụ trong chánh định, đến
khi thành Phật. Trong
định thường cúng, vô lượng vô
biên, tất cả chư Phật, không mất
định ư. Nếu không được
vậy, không thành Chánh Giác.
(44.- Nguyện
phổ đẳng tam muội. 45.- Nguyện trong
định cúng Phật).
Lúc con thành
Phật, thế giới phương khác, các chúng
Bồ Tát, nghe danh hiệu con, chứng pháp ly sinh,
được môn Tổng Tŕ, hoan hỷ thanh
tịnh, được b́nh đẳng trụ,
tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ
gốc đức. Ứng thời không được,
nhất nhị tam nhẫn. Đối với
Phật pháp, nếu không hiện chứng,
quả bất thối chuyển, con thề
quyết không, ở ngôi Chánh Giác.
(46.- Nguyện
được môn Tổng tŕ (Đà la ni). 47.-
Nguyện nghe danh đặng pháp nhẫn. 48.-
Nguyện hiện chứng quả bất thối
chuyển)
PHẨM
BẢY
QUYẾT
THÀNH CHÁNH GIÁC
Phật
bảo A Nan, lúc ấy Pháp Tạng, nói xong các
nguyện, dùng kệ tụng rằng:
Ta lập chí
vượt đời,
Quyết
đạt đạo vô thượng,
Nguyện này
không đầy đủ,
Thề không
thành Chánh Giác.
Lại làm
đại thí chủ,
Khắp
cứu kẻ cùng khổ,
Khiến chư
quần sinh kia,
Đêm dài không
ưu năo,
Sinh ra các căn
lành,
Thành
tựu quả Bồ Đề.
Nếu ta thành
Chánh Giác,
Lập danh
Vô Lượng Thọ.
Chúng sinh
nghe hiệu này,
Đều
đến trong cơi ta.
Như
Phật thân sắc vàng,
Tướng
tốt đều đầy đủ,
Cũng
đem tâm đại bi,
Lợi ích
các quần phẩm:
Ly dục sâu
chánh niệm,
Tịnh
huệ tu phạm hạnh.
Nguyện ta
trí huệ sáng,
Khắp
chiếu mười phương cơi,
Đoạn ba
độc, vô minh,
Sáng giúp chúng
ách nạn,
Xả ly ba
đường khổ,
Diệt các
phiền năo chướng,
Mở
mắt trí huệ kia,
Đạt
được thân quang minh,
Đóng bít các
đường ác,
Thông đạt
cửa hướng thiện,
V́ chúng khai
pháp tạng,
Ban khắp
công đức báu.
Như
Phật trí vô ngại,
Thực hành
hạnh từ mẫn,
Thường
làm thầy Trời, Người,
Đặng
bậc hùng ba cơi,
Nói pháp sư
tử hống,
Rộng
độ các hữu t́nh,
Viên măn
lời nguyện xưa,
Tất
cả đều thành Phật.
Nguyện này
nếu đặng quả,
Đại thiên
liền cảm động,
Hư không
các thiên thần,
Sẽ
rải hoa trân diệu.
Phật bảo A
Nan: Pháp Tạng Tỳ Kheo, nói kệ này xong.
Ứng lúc khắp cả, mặt đất
thảy đều, chấn động sáu cách.
Trời mưa hoa đẹp, rải đầy
trên đất, tự nhiên hư không, trổi lên
tiếng nhạc, cùng lời tán thán, “Quyết
định tất thành, Vô Thượng Chánh Giác”.
PHẨM
TÁM
TÍCH
CÔNG DỒN ĐỨC
Này ông A Nan!
Tỳ Kheo Pháp Tạng, ở trước Như
Lai, Thế Tự Tại Vương, và các đại
chúng, trong hàng trời người, hoằng
thệ nguyện kia, đă phát xong rồi.
Trụ huệ chân thật, dũng mănh tinh
tấn. Nhất hướng chuyên chí, trang nghiêm
cơi diệu. Sở tu cơi Phật, khai mở
rộng lớn. Vượt thắng tuyệt
đẹp, dựng lập thường nhiên, không
suy không biến. Ở vô lượng kiếp,
vun chứa đức hạnh, chẳng khởi
vọng tưởng, tham muốn sân si, không dính
sắc thanh, hương vị xúc pháp. Chỉ thích
nhớ niệm, chư Phật quá khứ, tu các
căn lành, hành hạnh tịch tịnh, xa ĺa hư
vọng, nương cửa chân đế,
trồng các cội đức, chẳng nề
gian khổ, ít muốn biết đủ, chuyên
cầu pháp lành, ban bố lợi ích, đến
các quần sinh. Chí nguyện không mỏi, thành
tựu sức nhẫn. Đối các hữu t́nh,
thường nhớ từ nhẫn. Nét mặt ôn
ḥa, nói lời dễ thương, khuyên lơn sách
tấn. Cung kính Tam Bảo, phụng sự sư
trưởng, tâm không dối trá, nịnh bợ
cong queo. Các hạnh trang nghiêm, đầy đủ
khuôn phép. Quán pháp như hóa, Tam muội thường
tịch. Khéo ǵn khẩu nghiệp, không chê
lỗi người. Khéo ǵn thân nghiệp, không
mất luật nghi. Khéo ǵn ư nghiệp, thanh
tịnh không nhiễm. Ở chốn đô
thị, thôn quê họ hàng, cùng các trân bảo,
đều không chấp trước. Thường
hành sáu độ, bố thí tŕ giới,
nhẫn nhục tinh tấn, thiền định
trí huệ. Đem pháp giáo hóa, an lập chúng sinh,
an trụ trong đạo, chân chánh vô thượng.
Do thành tựu đặng, thiện căn như
thế, chỗ nào sinh cũng, vô lượng kho
báu, tự nhiên ứng phát. Hiện thân Trưởng
giả, hoặc làm Cư sĩ, hào tộc tôn quư,
hoặc làm quốc vương, ḍng Sát Đế
Lợi, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc
vua của sáu “cơi trời Dục giới”, cho
đến Phạm Vương. Nơi các chư
Phật, cung kính cúng dường, chưa
từng gián đoạn. Công đức như
thế, nói chẳng thể cùng. Thân miệng thường
phát, vô lượng diệu hương,
giống như Chiên Đàn, hoa Ưu Bát La, mùi hương
tỏa khắp, vô lượng thế giới. Tùy
chỗ sinh ra, sắc tướng đoan nghiêm, băm
hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp, thảy đều đầy đủ.
Trong tay thường phát, của báu vô tận,
vật dụng trang nghiêm. Thảy các thứ
cần, đều là tối thượng,
lợi lạc hữu t́nh.
Do nhân duyên này, có thể khiến cho, vô lượng
chúng sinh, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
PHẨM
CHÍN
THÀNH
TỰU VIÊN MĂN
Phật
bảo A Nan: Tỳ Kheo Pháp Tạng, tu hạnh
Bồ Tát, tích công dồn đức, vô lượng
vô biên. Đối tất cả pháp, thường
được tự tại, ở chỗ “hay
biết”, đều không phải do, ngôn
ngữ phân biệt. Lời thệ nguyện phát,
thành tựu viên măn, như thật an trụ,
trang nghiêm đầy đủ, oai đức
rộng lớn, thanh tịnh cơi Phật.
A Nan nghe xong,
lời Thế Tôn nói, liền bạch Phật
rằng: Bồ Tát Pháp Tạng, thành bậc giác
ngộ, là Phật quá khứ, là Phật tương
lai, hay Phật hiện tại, thế giới phương
khác?
Thế Tôn
dạy rằng: Phật Như Lai kia, không từ
đâu tới, không đi về đâu, không
sinh không diệt, không phải quá khứ,
hiện tại vị lai. Chỉ v́ thực
hiện, hạnh nguyện độ sinh, hiện
tại phương Tây, cách Diêm Phù Đề, trăm
ngàn câu chi, na do tha cơi, có một thế giới,
tên là Cực Lạc. Pháp Tạng thành Phật,
hiệu A Di Đà, thành Phật đến nay,
trải qua mười kiếp. Hiện tại nói
pháp, vô lượng vô số, Bồ Tát Thanh Văn,
cung kính vây quanh.
PHẨM
MƯỜI
ĐỀU
NGUYỆN LÀM PHẬT
Đức Thế Tôn
nói: Phật A Di Đà, lúc làm Bồ Tát, cầu
đắc nguyện này. Vương tử A Xà,
cùng với năm trăm, vị đại trưởng
giả, nghe đặng lời này, phát ḷng vui
lớn, mỗi vị trên tay, nâng lọng hoa vàng,
tới lễ trước Phật. Dâng lọng
hoa rồi, ngồi sang một phía, nghe Phật
giảng kinh. Thâm tâm nguyện rằng:
“Khiến cho chúng con, tới khi thành Phật,
đều được giống như
Phật A Di Đà”.
Phật
liền biết ư, bảo các Tỳ Kheo: Các Vương
tử này, sau sẽ thành Phật, họ trong
đời trước, trú đạo Bồ Tát,
từ vô số kiếp, đă từng cúng dường,
bốn trăm ức Phật. Thời Phật Ca
Diếp, các vị ấy đều làm đệ
tử ta, nay cùng gặp lại, đồng cúng
dường ta. Lúc chư Tỳ Kheo, nghe Phật
nói thế, vô cùng vui mừng.
PHẨM
MƯỜI MỘT
CƠI
NƯỚC NGHIÊM TỊNH
Phật
bảo A Nan, cơi Cực Lạc kia, đầy
đủ vô lượng, công đức trang
nghiêm, vĩnh viễn không có, danh từ các
khổ, các nạn ác thú, các thứ ma năo. Cũng
lại không có, bốn mùa nóng lạnh, mưa gió
sai khác. Lại không có cả, sông biển
lớn nhỏ, g̣ nổng hầm hố, chông gai
cát sạn, Thiết Vi Tu Di, các núi đất
đá, chỉ là tự nhiên, làm bằng bảy
báu, đất bằng vàng ṛng, rộng răi
bằng phẳng, không thể hạn lượng,
vi diệu đẹp đẽ, thanh tịnh trang
nghiêm, siêu vượt mười phương,
tất cả thế giới.
A Nan nghe xong,
bạch Thế Tôn rằng: Nếu cơi nước
đó, không núi Tu Di, th́ Tứ Thiên Vương,
cùng Trời Đao Lợi, nương đâu mà
trụ?
Phật
hỏi A Nan: Dạ Ma Đâu Suất, cho đến
cơi Sắc, cơi Vô Sắc Giới, tất cả
cơi Trời, nương đâu mà trụ?
A Nan bạch
Phật: Nương sức nghiệp định,
không thể nghĩ bàn.
Phật
bảo A Nan: Nghiệp không nghĩ bàn, ông có
biết không? Quả báo thân ông, không thể nghĩ
bàn, nghiệp báo chúng sinh, cũng không nghĩ bàn,
căn lành chúng sinh, không thể nghĩ bàn, Thánh
lực chư Phật, thế giới chư
Phật, cũng chẳng nghĩ bàn. Chúng sinh nước
đó, sức công đức lành, trừ
chỗ hành nghiệp, cùng thần lực
Phật, cho nên như vậy.
A Nan bạch
Phật: Nghiệp nhân quả báo, không thể
nghĩ bàn, con đối pháp này, thật không
chỗ nghi, chỉ v́ phá trừ, lưới nghi
chúng sinh, trong đời vị lai, nên hỏi
lời này.
PHẨM
MƯỜI HAI
ÁNH
SÁNG CHIẾU KHẮP
Phật
bảo A Nan: Oai thần quang minh, Phật A Di Đà,
tối tôn bậc nhất, chư Phật mười
phương, chẳng thể sánh kịp,
biến chiếu phương Đông, hằng sa cơi
Phật, phương Nam Tây Bắc, cùng bốn
phương phụ, hai phương trên dưới,
cũng lại như thế. Nếu trên đảnh
Phật, hóa hiện tṛn sáng, hoặc chiếu
một hai, ba bốn do tuần, hoặc là trăm
ngàn, vạn ức do tuần. Quang minh chư
Phật, hoặc chiếu sáng đặng,
một hai cơi Phật, hoặc chiếu sáng đặng,
trăm ngàn cơi Phật. Chỉ Phật Di Đà,
quang minh chiếu khắp, vô lượng vô biên,
vô số cơi Phật. Quang minh chư Phật,
chiếu sáng xa gần, vốn do chỗ cầu
đạo trong đời trước, sở
nguyện công đức, lớn nhỏ chẳng
đồng, đến khi thành Phật, mỗi
vị tự được, chỗ làm tự
tại, chẳng cần dự tính. Phật A Di
Đà, quang minh ánh rực, thắng vượt hơn
ánh, mặt trời mặt trăng, ngàn ức
vạn lần, quang minh tối tôn, vua trong chư
Phật. V́ thế cho nên, Phật Vô Lượng
Thọ, cũng có hiệu là Phật Vô Lượng
Quang, cũng có hiệu là Phật Vô Biên Quang,
Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đẳng Quang,
là Trí Huệ Quang, là Thường Chiếu Quang,
là Thanh Tịnh Quang, là Hoan Hỷ Quang, là
Giải Thoát Quang, là An Ổn Quang, Siêu Nhật
Nguyệt Quang, Bất Tư Nghị Quang. Quang minh
như thế, khắp chiếu mười phương,
tất cả thế giới, nếu chúng sinh nào,
chạm quang minh này, cấu diệt thiện sinh,
thân ư nhu nhuyến, nếu trong tam đồ,
chỗ vô cùng khổ, thấy quang minh này, đều
được dừng dứt, đến khi
mạng chung, đều đặng giải thoát.
Nếu chúng sinh nào, chạm quang minh kia, oai
thần công đức, đêm ngày xưng nói,
chí tâm chẳng dừng, chỗ nguyện tùy ư,
đặng sinh nước đó.
PHẨM
MƯỜI BA
THỌ
MẠNG ĐẠI CHÚNG VÔ LƯỢNG
Phật bảo A
Nan: Phật Vô Lượng Thọ, mạng
sống dài lâu, không thể tính kể, lại có
vô số, các chúng Thanh Văn, thần trí thông
triệt, oai lực tự tại, ḷng tay nắm
trọn, tất cả thế giới. Trong đệ
tử ta, Đại Mục Kiền Liên, thần thông
đệ nhất, ở trong tam thiên đại
thiên thế giới, tất cả tinh tú, cùng các
chúng sinh, trong một ngày đêm, đều
đếm biết số. Giả sử chúng sinh,
ở trong mười phương, đều thành
Duyên Giác, mỗi một Duyên Giác, thọ
vạn ức tuổi, thần thông đều như,
Đại Mục Kiền Liên, dùng hết thọ
mạng, vận hết trí lực, cùng đem so
tính, với số Thanh Văn, trong hội
Phật kia, trong ngàn vạn phần, chưa
được một phần.
Ví như
biển lớn, sâu rộng vô biên, nếu
lấy sợi lông, chẻ ra trăm phần,
nghiền thành bụi nhỏ, lấy mỗi
bụi nhỏ, chấm giọt nước
biển, nước trong bụi lông, so với nước
biển, nước nào nhiều hơn?
A Nan! Các
vị “Mục Kiền Liên” kia, chỗ đếm
biết được, như nước
bụi lông, chỗ chưa được
biết, như nước biển lớn.
Mạng sống Phật kia, cùng chư Bồ Tát,
Thanh Văn Trời Người, thọ mạng cũng
vậy. Không thể nào dùng, toán số ví
dụ, mà biết được hết.
PHẨM
MƯỜI BỐN
CÂY
BÁU KHẮP NƯỚC
Nước Như
Lai kia, nhiều loại cây báu, hoặc cây
thuần vàng, hoặc cây thuần bạc, cây
bằng lưu ly, cây bằng thủy tinh, cây
bằng hổ phách, cây bằng mỹ ngọc, cây
bằng mă năo, duy chỉ do một thứ báu
hợp thành, không có xen tạp. Hoặc có hai báu,
hoặc có ba báu, cho đến bảy báu,
chuyển hợp mà thành, gốc thân cành
ngọn, do báu ấy tạo, hoa lá quả quư, làm
bởi báu khác. Hoặc có cây báu, chất vàng làm
gốc, chất bạc làm thân, lưu ly làm cành,
thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá,
mỹ ngọc làm hoa, mă năo làm quả. C̣n
những cây khác, cũng có bảy báu, hợp làm
gốc thân, cành lá hoa quả, tạo ra nhiều
loại. Mỗi loại mỗi hàng, hàng hàng
thẳng tắp, thân thân đối nhau, cành lá
hướng nhau, hoa trái như nhau, sắc đẹp
lộng lẫy, không ǵ hơn được.
Khi gióù mát thổi, phát ra ngũ âm, âm giai vi
diệu, hài ḥa tự nhiên. Các cây báu này,
khắp cả nước ấy.
PHẨM
MƯỜI LĂM
BỒ
ĐỀ ĐẠO TRÀNG
C̣n Đạo tràng
kia, cây Bồ Đề cao, bốn trăm vạn
dặm. Chu vi gốc cây, năm ngàn do tuần, cành
lá tỏa ra, hai mươi vạn dặm. Do
tất cả báu, tự nhiên hợp thành, hoa
quả xinh tươi, lộng lẫy chiếu
khắp. Lại có màu sắc, hồng lục
xanh trắng, các ma ni quư, vua các món báu,
đươm chuỗi Anh Lạc, mây tụ báu
kết, trang sức trụ báu. Các linh các khánh,
bằng vàng bằng ngọc, giăng khắp
tứ phía, lưới báu trân diệu, che trùm bên
trên, trăm ngàn vạn sắc, hực chiếu
sáng nhau, vô lượng hào quang, vô biên chiếu
diệu, tất cả trang nghiêm, tùy ứng mà
hiện. Gió nhẹ len qua, cành cây kẽ lá,
diễn ra pháp âm, vô cùng vi diệu, tiếng Pháp
chan ḥa, khắp các nước Phật, mười
phương thế giới, mầu nhiệm thanh
thoát, vi diệu ḥa nhă, cao tột bậc
nhất. Nếu có chúng sinh, thấy cây Bồ Đề,
nghe đặng âm thanh, ngửi đặng hương
thơm, nếm đặng quả vị, xúc
chạm hào quang, nhớ cây công đức, sáu căn
thanh triệt, không có năo hoạn, trụ bất
thối chuyển, đến khi thành Phật.
Lại nữa do thấy, cây Bồ Đề kia,
đắc đặng ba nhẫn, một âm thanh
nhẫn, hai nhu thuận nhẫn, ba vô sinh pháp
nhẫn.
Phật
bảo A Nan, cơi Phật như thế, cây
cối hoa quả, cùng các chúng sinh, đều làm
Phật sự, đây thảy đều do, nơi
sức oai thần, nơi sức bổn
nguyện, nơi Măn Túc nguyện, nơi Minh
Liễu nguyện, Kiên Cố nguyện và Cứu
Cánh nguyện của Phật Vô Lượng
Thọ.
PHẨM
MƯỜI SÁU
NHÀ
CỬA LẦU GÁC
Lại nữa
ở nơi Phật Vô Lượng Thọ,
giảng đường tinh xá, lầu quán lan
can, cũng do bảy báu, tự nhiên hóa thành,
lại thêm các loại, ngọc trắng ma ni, trùng
trùng giăng bủa, sáng diệu vô thượng,
các vị Bồ Tát, cung điện chỗ
ở, cũng lại như thế. Trong đó có
chỗ: trên đất giảng kinh, tụng kinh,
thọ kinh, nghe kinh, kinh hành, quán chiếu,
tọa thiền; trên không giảng tụng,
thọ nghe, kinh hành, quán chiếu, tọa
thiền. Hoặc là đắc đặng,
quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A
Na Hàm, quả A La Hán. Người chưa đắc
đặng A Duy Việt Trí, th́ người
ấy đặng A Duy Việt Trí. Mỗi tự
niệm đạo, nói đạo hành đạo,
thảy đều hoan hỷ.
PHẨM
MƯỜI BẢY
SUỐI
AO CÔNG ĐỨC
Lại nữa
hai bên, trái phải giảng đường,
suối ao thông nhau, dài rộng sâu cạn,
thảy đều nhất đẳng. Hoặc mười
do tuần, hai mươi do tuần, thậm chí
cho đến, trăm ngàn do tuần, thơm tho
trong suốt, đủ tám công đức. Quanh
bờ vô số, cây hương Chiên Đàn, cây trái
tươi tốt, hoa quả thơm lừng,
quang minh chiếu diệu, lá chen rợp đều,
phủ x̣a mặt ao, tỏa muôn ngàn hương,
thế gian khó b́, hương theo gióù bay, nương
ḍng nước thoảng. Lại nữa ao đặng
trang sức bảy báu, đáy trải cát vàng.
Hoa Ưu Bát La, hoa Bát Đàm Ma, hoa Câu Mâu Đầu,
hoa Phân Đà Lợi, muôn sắc lộng lẫy,
chan ḥa mặt nước. Nếu có chúng sinh,
tới tắm trong ao, muốn nước tới
chân, muốn nước tới gối, muốn
nước tới lưng, muốn nước
tới cổ. Hoặc muốn rưới thân,
hoặc lạnh hoặc ấm, chảy nhanh
chảy chậm, nước ấy nhất
nhất, thanh tịnh tinh khiết, không h́nh không
tướng, tùy ư chúng sinh, thần thể khai
vui. Cát báu chiếu khắp, cùng tận thâm sâu.
Sóng lùi sóng tới, thong thả bủa văng,
tiếng vang vi diệu, vô lượng âm thanh,
hoặc giả nghe đặng, tiếng Phật
Pháp Tăng, tiếng Ba La Mật, Chỉ Tức
Tịch Tịnh, Vô Sinh Vô Diệt, Mười
lực Vô Úy, hoặc tiếng Vô Tánh, Vô Tác Vô
Ngă, hoặc tiếng Đại Từ Đại Bi
Hỷ Xả, hoặc tiếng Cam Lồ Quán Đảnh
Thọ Vị. Từng thanh từng loại, nghe
đặng thế rồi, tâm ta thanh tịnh,
chẳng chút phân biệt, chánh trực b́nh đẳng,
thiện căn thuần thục, tùy chỗ
muốn nghe, cùng Pháp tương ưng,
nguyện nghe tiếng nào, riêng nghe tiếng
ấy, chỗ không muốn nghe, tuyệt nhiên
chẳng nghe. Hằng bất thối tâm A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Mười phương
thế giới, chư vị văng sinh, đều
ở hoa sen, trong ao bảy báu, tự nhiên hóa
sinh, tất đặng thọ nhận, thanh hư
làm thân, vô cực làm thể. Không c̣n nghe đến,
tên của ba đường, ác năo khổ
nạn, không có giả thiết, huống chi
thật khổ. Chỉ có âm thanh, vui vẻ
tự nhiên, nên cơi nước kia, gọi là
Cực Lạc.
PHẨM
MƯỜI TÁM
HIẾM
CÓ, SIÊU VƯỢT THẾ GIAN
Nước
Cực Lạc kia, có các chúng sinh, dung sắc vi
diệu, vượt đời hiếm có, đồng
cùng một loại, không tướng sai khác,
chỉ v́ thuận theo, phương tục nên có,
các tên Trời Người.
Phật
bảo A Nan, ví như thế gian, có kẻ hành
khất, nghèo khổ rách rưới, đứng
bên cạnh vua, mặt mày h́nh trạng, đâu
thể sánh bằng! Nếu vua so với,
Chuyển Luân Thánh Vương, th́ quả quê hèn,
giống như hành khất, đứng cạnh
bên vua. Chuyển Luân Thánh Vương, oai tướng
bậc nhất, nhưng nếu so với, vua
trời Đao Lợi, lại xấu xí hơn. Ví
như Đế Thích, đem so sánh với, vua
Trời Thứ Sáu, dù gấp trăm ngàn, cũng
chẳng tương đồng. Vua Trời
Thứ Sáu, nếu đem so với, Bồ Tát
Thanh Văn, trong nước Cực Lạc, dung
nhan tươi sáng, dù vạn ức lần, cũng
không b́ kịp. Cung điện chỗ ở, áo
quần ăn uống, cũng như cơi trời
Tha Hóa Tự Tại, đến như oai đức,
giai cấp phẩm vị, thần thông biến hóa,
tất cả Trời Người, không thể
đem sánh, trăm ngàn vạn ức, không
thể tính kể. A Nan nên biết, Phật Vô Lượng
Thọ, cơi nước Cực Lạc, công đức
đoan trang, nghiêm tịnh như thế, không
thể nghĩ bàn.
PHẨM
MƯỜI CHÍN
THỌ
DỤNG ĐẦY ĐỦ
Lại nữa,
thế giới Cực Lạc, có các chúng sinh,
đă sinh đang sinh, hoặc sẽ được
sinh, đều được sắc thân, vi
diệu như thế, h́nh mạo đoan nghiêm,
vô lượng phước đức, trí
huệ sáng suốt, thần thông tự tại.
Các thứ thọ dụng, thảy đều
đầy đủ, thảy đều phong phú,
cung điện phục sức, hương hoa
phan cái, đồ dùng trang nghiêm, chỗ cần
tùy ư, đều được như ư.
Nếu khi muốn ăn, chén bằng bảy báu,
tự nhiên hiện trước, trăm món ăn
uống, tự nhiên sung măn. Tuy ăn như
thế, nhưng thật chẳng ăn, thấy
sắc ngửi hương, dùng ư để
ăn. Sắc lực tăng trưởng, không có
tiện uế, thân tâm nhu nhuyến, không tham
đắm vị, đến lúc ăn xong, đồ
dùng biến mất, khi cần lại hiện.
Lại có các thứ, báu diệu làm áo, mũ
đai Anh Lạc, quang minh vô lượng, trăm
ngàn diệu sắc, thảy đều tự nhiên,
đầy đủ trên thân. Nhà cửa chỗ
ở, xứng hợp h́nh sắc, lưới báu
giăng bủa, linh báu treo khắp, lạ lùng trân
quư, trang hoàng khắp khắp. Quang sắc
lộng lẫy, vô cùng vô tận, trang nghiêm
diễm lệ. Lầu các lan can, điện
đường pḥng gác, vuông tṛn rộng
hẹp, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc
ở hư không, hoặc ở đất
bằng, an ẩn thanh tịnh, vi diệu khoái
lạc, vừa nghĩ liền hiện, thảy
đều đầy đủ.
PHẨM
HAI MƯƠI
GIÓ
ĐỨC, MƯA HOA
Cơi nước
Phật đó, đúng vào giờ ăn, bỗng
nhiên gió đức, nổi lên chầm chậm,
lướt xuyên màn lưới, len hàng cây báu,
phát tiếng vi diệu, diễn nói Khổ Không,
Vô Thường, Vô Ngă, các Ba La Mật. Rộng
truyền muôn thứ, hương đức
ấm diệu, có người nghe đặng,
tập khí trần lao, tự nhiên chẳng
khởi. Gió chạm vào thân, an ḥa điều thích,
ví như Tỳ Kheo, đắc diệt tận
định, Gió lại thổi vào rừng cây
bảy báu, hoa rơi kết nhóm, từng sắc
từng quang, đầy khắp cơi Phật.
Từng màu từng sắc, không xen không tạp,
uyển chuyển sáng suốt, như Đâu La Miên.
Chân bước lên hoa, lún sâu bốn lóng, theo bước
chân giở, phẳng lại như cũ. Qua
bữa ăn xong, hoa kia tự mất, mặt
đất thanh tịnh, lại giăng hoa
mới. Tùy thời tùy tiết, trở lại
biến khắp, như trước không khác, sáu
lần như thế.
PHẨM
HAI MƯƠI MỐT
SEN
BÁU PHẬT QUANG
Lại hoa sen báu,
đầy khắp thế giới, mỗi
mỗi hoa sen, trăm ngàn ức lá, hoa đó
quang minh, vô lượng màu sắc. Sắc xanh ánh
xanh, sắc trắng ánh trắng, đen vàng
đỏ tía, hào quang cũng hệt. Lại
nữa c̣n có, vô lượng diệu bảo, trăm
ngàn ma ni, đẹp lạ chiếu sáng, minh
diệu hơn ánh mặt trời mặt trăng.
Hoa sen đó độ chừng nửa do tuần,
hoặc một hoặc hai, ba bốn cho đến,
trăm ngàn do tuần, trong mỗi hoa sen, ánh sáng
phát ra, ba mươi sáu trăm ngàn vạn
ức tia. Trong mỗi một tia, hiện ba mươi
sáu trăm ngàn ức Phật. Thân sắc vàng tía,
tướng tốt thù đặc. Mỗi
một Đức Phật, cũng lại phóng ra, trăm
ngàn quang minh, chiếu khắp mười phương,
nói pháp vi diệu. Như chư Phật ấy,
mỗi mỗi an lập, vô lượng chúng sinh,
nơi Phật Chánh Đạo.
PHẨM
HAI MƯƠI HAI
QUYẾT
CHỨNG QUẢ TỐI CỰC
Lại nữa
A Nan, trong cơi Phật đó, thảy đều
không có: Ánh lửa bóng tối, mặt trời
mặt trăng, tinh tú chiếu diệu, hiện
tượng ngày đêm. Cũng không có tên, tháng
năm kiếp số, lại không chấp
trụ, vào các nhà cửa, đối tất
cả nơi, không có h́nh thức, không có danh
hiệu, thủ xả phân biệt, chỉ
thọ khoái lạc, thanh tịnh tối cực.
Nếu có thiện nam, nếu có thiện nữ,
đă sinh sẽ sinh, thảy đều
được trú trong Chánh Định Tụ,
quyết định chứng đặng, quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tại v́ sao thế? Nếu là tà định và
bất định tụ, chẳng thấu
triệt đặng, nhân tối cực đó.
PHẨM
HAI MƯƠI BA
MƯỜI
PHƯƠNG CHƯ PHẬT TÁN THÁN
Lại nữa
A Nan, ở về phương Đông, thế
giới nhiều như, số cát sông Hằng,
mỗi mỗi thế giới, có hằng sa
Phật, mỗi vị đều dùng, tướng
lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang,
nói lời thành thật, xưng tán công đức,
Phật Vô Lượng Thọ, không thể nghĩ
bàn. Hướng Nam Tây Bắc, hằng sa thế
giới, chư Phật xưng tán, cũng
lại như thế. Bốn hướng phụ
và hai hướng trên dưới, hằng sa
thế giới, chư Phật xưng tán, cũng
lại như thế. Tại v́ sao thế?
Bởi muốn khiến cho, chúng sinh phương
khác, nghe danh hiệu Phật, phát tâm thanh
tịnh, quán chiếu thọ tŕ, quy y cúng dường,
cho đến hay phát, một niệm tịnh tín,
có được căn lành, chí tâm hồi hướng,
nguyện sinh nước ấy. Tùy nguyện
được sinh, đắc bất thối
chuyển, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ Đề.
PHẨM
HAI MƯƠI BỐN
BA
BẬC VĂNG SINH
Phật
bảo A Nan: Mười phương thế
giới, chư thiên nhân dân, số người
chí tâm, nguyện sinh nước đó, thường
gồm ba bậc:
Những
bậc thượng bối: ly gia đoạn
dục, hành hạnh Sa Môn, phát Bồ Đề Tâm,
nhất hướng chuyên niệm, A Di Đà
Phật, tu các công đức, nguyện sinh nước
đó. Các chúng sinh này, đến lúc lâm chung,
Phật A Di Đà, cùng các Thánh chúng, hiện ở
trước mặt, trong một khoảnh
khắc, liền được tiếp dẫn,
văng sinh Cực Lạc, bèn tự hóa sinh, trong ao
bảy báu, trí huệ dơng mănh, thần thông
tự tại. Do đó, A Nan! Có chúng sinh nào,
muốn trong đời này, thấy Phật Di
Đà, phải nên phát tâm, Vô Thượng Bồ
Đề. Lại phải chuyên niệm, cơi nước
Cực Lạc, tích chứa căn lành, liền
đem hồi hướng, thế nên thấy
Phật, sinh về nước đó, đặng
bất thối chuyển, cho đến đắc
quả, Vô Thượng Bồ Đề.
Với bậc
trung bối, tuy rằng không thể, hành hạnh
Sa Môn, tu công đức lớn, nhưng phải
phát tâm, Bồ Đề Vô Thượng, nhất hướng
chuyên niệm, A Di Đà Phật. Tùy chỗ huân tu,
các công đức lành, phụng tŕ trai giới,
khởi dựng tháp tượng, cúng dường
Sa Môn, đốt đèn treo phan, rải hoa đốt
hương, lấy đó hồi hướng,
nguyện sinh nước kia. Người đó
mệnh chung, Phật A Di Đà, hóa hiện thân Ngài,
quang minh tướng tốt, đủ như chân
Phật, cùng với Thánh Chúng, trước sau vây
quanh, hiện trước người đó,
nhiếp thọ tiếp dẫn, liền theo hóa
Phật, văng sinh nước, đó, trụ
bất thối chuyển, Vô Thượng Bồ
Đề. Trí huệ công đức, sau bậc thượng
bối.
Với bậc
hạ bối, nếu như không thể, tạo
các công đức, phải nên phát tâm, Vô Thượng
Bồ Đề, một ḷng chuyên niệm, A Di Đà
Phật, vui vẻ tin sâu, chẳng sinh nghi ngờ,
đem tâm chí thành, nguyện sinh Cực Lạc.
Đến khi mệnh chung, người ấy trong
mộng, thấy Phật Di Đà, cũng được
văng sinh. Trí huệ công đức, sau bậc
trung bối.
Nếu có chúng
sinh, trụ pháp Đại Thừa, đem tâm thanh
tịnh, hướng Vô Lượng Thọ, cho
đến mười niệm, nguyện sinh nước
Ngài, nghe pháp thâm sâu, liền sinh tin hiểu,
nhẫn đến đạt được,
một niệm tịnh tâm, niệm Đức
Phật kia. Người ấy mệnh chung,
thấy Phật Di Đà, sinh về Cực Lạc,
được bất thối chuyển, Vô Thượng
Bồ Đề.
PHẨM
HAI MƯƠI LĂM
CHÁNH
NHÂN VĂNG SINH
Lại nữa
A Nan, nếu như có người thiện nam,
thiện nữ, nghe kinh điển này, thọ tŕ
đọc tụng, biên chép cúng dường, ngày
đêm không ngừng, cầu sinh Cực Lạc,
phát tâm Bồ Đề, giữ ǵn giới cấm,
vững vàng không phạm. Lợi lạc hữu
t́nh, căn lành đă làm, đều ban cho
họ, khiến họ an lạc, nhớ niệm
Đức Phật Di Đà phương Tây, cùng
quốc độ Ngài. Người này mạng
chung, sắc tướng như Phật, mỗi
mỗi trang nghiêm, sinh về cơi báu, mau được
nghe pháp, hằng bất thối chuyển.
Lại nữa
A Nan, nếu có chúng sinh, muốn sinh Cực
Lạc, tuy rằng không thể, đặng tinh
tấn lớn, hoặc đặng thiền định,
tận tŕ kinh giới, nhưng cốt làm lành:
Một không sát sinh. Hai không trộm cắp. Ba không
dâm dục. Bốn không vọng ngữ. Năm không
thêu dệt. Sáu không ác khẩu. Bảy không lưỡng
thiệt. Tám không tham lam. Chín không sân giận. Mười
không si mê. Như thế suốt cả ngày đêm
nghĩ nhớ, thế giới Cực Lạc,
Phật A Di Đà, các thứ công đức, các
thứ trang nghiêm, hết ḷng quy y, đảnh
lễ cúng dường, người này mạng
chung, không kinh không sợ, tâm không điên đảo,
liền được văng sinh, về cơi
Cực Lạc.
Nếu sự
đa đoan, không thể ly gia, bận rộn không
thể, đại tu trai giới, nhất tâm
thanh tịnh, những lúc rỗi rảnh, thân tâm
đoan chính, dứt muốn bỏ lo, từ tâm
tinh tấn, không nên sân giận, đoạn
trừ tật đố, tham lam bỏn sẻn,
trong ḷng chẳng chuốt, hối hận nghi
ngờ. Phải nên hiếu thuận, trung tín
hết ḷng, tin kinh Phật nói, nghĩa lư thâm sâu,
tin nơi đạo lư, làm lành đặng phước,
phụng tŕ tất cả, các pháp như thế,
không được thiếu sót, nghĩ suy chín
chắn. Muốn đặng độ thoát, ngày
đêm thường niệm, muốn nguyện văng
sinh, cơi nước thanh tịnh, của Phật
Di Đà, mười ngày mười đêm, cho
đến một ngày, một đêm nối nhau,
không hề gián đoạn, mạng chung đều
đặng, văng sinh Cực Lạc, hành Bồ Tát
đạo. Chư vị văng sinh, thảy đều
đắc đặng, A Duy Việt Trí, đủ
sắc vàng ṛng, ba mươi hai tướng,
đều sẽ thành Phật. Muốn được
làm Phật, ở cơi nước nào, tùy theo tâm
nguyện. Do nơi chư vị, ngày đêm tinh
tấn, cầu đạo không dừng, quyết
định kết quả, sở nguyện
chẳng luống.
Lại nữa
A Nan! Do nghĩa lợi này, vô lượng vô
số, không thể nghĩ bàn, chẳng có sai khác,
vô biên thế giới, chư Phật Như Lai,
đồng thanh xưng tán, công đức
của Đức Phật Vô Lượng Thọ.
PHẨM
HAI MƯƠI SÁU
LỄ
CÚNG NGHE PHÁP
Lại nữa A
Nan! Mười phương thế giới, các
chúng Bồ Tát, v́ muốn chiêm lễ, Cực
Lạc thế giới, Vô Lượng Thọ
Phật, đều đem hương hoa, tràng
phan bảo cái, đi đến chỗ Phật,
cung kính cúng dường, nghe nhận kinh pháp, tuyên
bố hóa đạo, xưng tán cơi Phật, công
đức trang nghiêm. Bấy giờ Thế Tôn,
liền nói kệ rằng:
Cơi nước
Phật Phương Đông
Nhiều như
cát sông Hằng
Hằng sa
chúng Bồ Tát
Đến
lễ Vô Lượng Thọ
Và chín phương
c̣n lại
Cũng
đồng lễ như thế
Đều
đem tâm cung kính
Dâng cúng món
trân diệu
Phát âm thanh
ḥa nhă
Ngợi khen
Tối Thắng Tôn
Thần thông
huệ rốt ráo
Thâm
nhập sâu cửa pháp
Nghe danh Đức
Phật thánh
An ổn
đặng lợi lớn
Trong các món
cúng dường
Siêng tu không
biếng mỏi
Quán cơi thù
thắng kia
Vi diệu
khó nghĩ bàn
Công đức
trang nghiêm khắp
Các cơi
Phật khó bằng
Nhân phát tâm
vô thượng
Nguyện chóng
thành Bồ Đề
Liền
đó đấng Tối Thắng
Mỉm cười
hiện thân vàng
Quang minh
từ miệng phóng
Chiếu
khắp mười phương cơi
Thâu về
nhiễu quanh Phật
Ba ṿng xong
nhập đảnh
Bồ Tát
thấy hào quang
Liền
chứng ngôi bất thối
Lúc hội
tất cả chúng
Đồng
sinh tâm hoan hỷ
Phật
ngữ phạm rúng động
Bát âm thông
diệu thanh
Chánh sĩ
mười phương tới
Ta tất
biết nguyện kia
Chí cầu
nghiêm Tịnh Độ
Thọ kư
sẽ thành Phật
Liễu
triệt tất cả pháp
Như dư
vang mộng huyễn
Đủ
đầy các diệu nguyện
Ắt thành
cơi như thế
Biết cơi
như bóng ảnh
Thường
phát tâm hoằng thệ
Rốt ráo
đạo Bồ Tát
Đủ
đầy cội công đức
Tu thắng
hạnh Bồ Đề
Thọ kư
sẽ thành Phật
Thông đạt
các pháp tánh
Tất
cả Không, Vô Ngă
Chuyên
cầu Tịnh Độ Phật
Ắt thành
cơi như thế
Nghe pháp vui
nhận hành
Được
tới chỗ thanh tịnh
Nhất
định Vô Lượng Tôn
Thọ kư
thành Đẳng Giác
Cơi thù
thắng vô biên
Sức
bổn nguyện Phật kia
Nghe danh
muốn văng sinh
Dự vào
ngôi bất thối
Bồ Tát
phát chí nguyện
Nguyện cơi
ḿnh không khác
Nhớ
rộng độ tất cả
Đều phát
tâm Bồ Đề
Xả
bỏ thân luân hồi
Đều
khiến lên bờ giác
Gần gũi
vạn ức Phật
Tự
tại vô ngại khắp
Đi giáo hóa
các cơi
Cung kính hoan
hỷ đi
Độ xong
về An Dưỡng
PHẨM
HAI MƯƠI BẢY
CA
THÁN PHẬT ĐỨC
Phật bảo A
Nan, Bồ Tát nước đó, nương oai
thần Phật, trong khoảng bữa ăn,
lại tới mười phương, vô biên cơi
tịnh, cúng dường chư Phật. Hương
hoa tràng phan, những đồ cúng dường,
vừa nghĩ liền đến, đều
hiện trong tay, trân diệu thù đặc,
thế gian chẳng có. Dâng cúng dường
Phật và chúng Bồ Tát, các hoa đă rải,
liền ngay trên không, kết làm một hoa, hoa
đều hướng xuống, tṛn đẹp
biến khắp, hóa thành lọng hoa. Trăm ngàn
quang sắc, mỗi sắc mỗi hương, mùi
hương xông khắp, bảo cái nhỏ
nhất, đầy mười do tuần, như
thế chuyển bội, cho đến che cùng,
khắp cả tam thiên đại thiên thế
giới, tùy theo trước sau, thứ tự
biến mất. Sau rốt nếu không c̣n
rải hoa mới, chỗ hoa rải trước,
cuối cùng chẳng rơi. Ở trong hư không,
ḥa tấu nhạc trời, dùng âm vi diệu, ca
thán Phật đức. Trải qua khoảnh
khắc, quay về bổn quốc, cùng tụ
hợp nơi, giảng đường bảy báu.
Phật Vô Lượng Thọ, rộng nói đại
giáo, diễn xướng diệu pháp, thảy
đều hoan hỷ, tâm giải đạo
đạt. Gió hương liền thổi qua cây
bảy báu, phát tiếng ngũ âm, vô lượng
diệu hoa, theo gió rải tung ra khắp bốn
phía, tự nhiên cúng dường, như thế
không dừng. Tất cả chư Thiên, mỗi
vị mang theo, trăm ngàn hương hoa, muôn
thứ âm nhạc, cúng dường Phật kia, cùng
chư Bồ Tát, và chúng Thanh Văn, lui tới
trước sau, hớn hở khoái lạc. Đây
do bổn nguyện, Vô Lượng Thọ
Phật, gia tŕ oai lực và cũng đă
từng, cúng dường Như Lai, thiện căn
tương tục, v́ không khuyết giảm, v́
khéo tu tập, v́ khéo nhiếp thọ, v́ khéo thành
tựu.
PHẨM
HAI MƯƠI TÁM
ĐẠI
SĨ THẦN QUANG
Phật bảo A
Nan: Trong cơi nước đó, các Bồ Tát chúng,
đều đồng thấy suốt, nghe
thấu mọi sự, tám phương trên dưới,
quá hiện vị lai, chư Thiên nhân dân, cho
đến các loài, ḅ bay máy cựa, tâm ư
thiện ác, lời miệng muốn nói,
chừng nào độ thoát, đắc đạo
văng sinh, đều dự biết cả. Lại
cơi Phật đó, các chúng Thanh Văn, thân sáng
một tầm, quang minh Bồ Tát, chiếu trăm
do tuần. Có hai Bồ Tát, tối tôn bậc
nhất, oai thần quang minh, chiếu khắp tam
thiên đại thiên thế giới.
A Nan bạch
Phật: Hai vị Bồ Tát, danh hiệu là ǵ?
Đức Phật liền bảo: Một vị
danh gọi là Quán Thế Âm, một vị danh
gọi là Đại Thế Chí. Cả hai vị này,
nơi cơi Ta Bà, tu hạnh Bồ Tát, văng sinh nước
kia, thường ở hai bên, trái phải
của Đức Phật A Di Đà. Muốn đến
mười phương, vô lượng chỗ
Phật, tùy tâm liền đến, hiện nơi
cơi này, làm lợi lạc lớn. Ngay trong
thế gian, nếu các thiện nam và các
thiện nữ, gặp lúc cấp nạn, rơi
vào khủng bố, quay về nương tựa,
Bồ Tát Quán Âm, đều được
giải thoát.
PHẨM
HAI MƯƠI CHÍN
NGUYỆN
LỰC HOẰNG THÂM
Lại nữa A
Nan! Trong cơi Phật đó, tất cả Bồ Tát,
hiện tại vị lai, đều đang
rốt ráo, nhất sinh bổ xứ. Duy trừ
nguyện lớn, vào cơi sinh tử, v́ độ
quần sinh, làm sư tử hống, khoác đại
giáp trụ, công đức hoằng thệ, dùng
tự trang nghiêm. Tuy rằng sinh vào, đời
ác năm trược, thị hiện giống
họ, thẳng tới thành Phật, không
thọ hướng ác, sinh đâu cũng thường
biết mạng đời trước. Phật
Vô Lượng Thọ, ư muốn độ thoát,
các loại chúng sinh, mười phương cơi
nước, đều khiến văng sinh, nước
Cực Lạc kia, tất khiến đặng
chứng vào đường Niết Bàn, tất
khiến cho người hành đạo Bồ Tát,
đều đặng thành Phật. Đă thành
Phật rồi, cùng nhau giáo thọ, cùng nhau
độ thoát. Triển chuyển như thế,
không thể tính kể. Mười phương
thế giới, Thanh Văn Bồ Tát, các loài chúng
sinh, sinh về nước đó, đặng
đạo Niết Bàn, đều sẽ thành
Phật, không thể tính kể. Trong nước
Phật đó, thường như nhất pháp,
không có tăng nhiều. Tại v́ sao thế?
Giống như biển lớn, là vua của nước,
muôn sông đổ về, đều vào biển
cả, mà nước biển lớn, nào có tăng
giảm! Tám phương trên dưới, vô
số nước Phật. Nước A Di Đà, lâu
dài rộng lớn, sáng đẹp vui vẻ, vô
cùng độc đáo, trang nghiêm thù thắng.
Vốn do đương lúc, c̣n làm Bồ Tát,
sở nguyện cầu đạo, tích lũy công
đức. Phật Vô Lượng Thọ, ân
đức bố thí, tám phương trên dưới,
vô cùng vô tận, sâu rộng vô lượng, không
thể nói hết.
PHẨM
BA MƯƠI
BỒ
TÁT TU TR̀
Lại nữa A
Nan, trong cơi nước đó, tất cả
Bồ Tát, thiền định trí huệ,
thần thông oai đức, thảy đều viên
măn, bí tạng chư Phật, thông đạt
rốt ráo, điều phục các căn, thân tâm
nhu nhuyến, sâu vào chánh huệ, tàng dư
tập khí, chẳng c̣n dấy khởi, theo
chỗ Phật hành, Thất giác, Thánh đạo,
tu hành ngũ nhăn, chiếu chơn đạt
tục, Nhục nhăn giản trạch, Thiên nhăn
thông suốt, Pháp nhăn thanh tịnh, Huệ nhăn
thấy chơn, Phật nhăn đầy đủ,
rơ biết Pháp tánh, biện tài tổng tŕ,
tự tại vô ngại, khéo giải thế gian,
phương tiện vô biên, chỗ nói chân
thật, vào sâu nghĩa vị. Độ chúng
hữu t́nh, diễn nói Chánh Pháp, Vô Tướng
Vô Vi, không buộc không mở, không phân không
biệt, xa ĺa điên đảo, ngay chỗ
thọ dụng, đều không nhiếp thủ,
đi khắp cơi Phật, không luyến không chán,
không vui không cầu, cũng không tưởng
cầu, không ta không người, không tưởng
oán trái. Tại v́ sao thế? Bởi các Bồ Tát,
đối với chúng sinh, đem Từ Bi
lớn, lợi ích quần sinh, xả ly chấp
trước, thành tựu vô lượng, vô biên
công đức. Lấy Huệ vô ngại,
giải Pháp Như Như, khéo biết Tập
Diệt, phương tiện âm thanh, không vui
tiếng đời, thích trong chánh luận,
biết tất cả pháp, thảy đều không
tịch, sinh thân phiền năo, tận dứt
cả hai. Ở trong Tam giới, b́nh đẳng
siêng tu, rốt ráo Nhất Thừa, đến
bờ giác kia, quyết đoạn lưới
nghi, chứng Vô Sở Đắc, dùng trí phương
tiện, tăng trưởng rơ biết, vốn
tự xưa nay, an trụ thần thông, đắc
đạo Nhất Thừa, liễu ngộ do
đấy, không do ǵ khác!
PHẨM
BA MƯƠI MỐT
CÔNG
ĐỨC CHÂN THẬT
Trí ấy rộng
sâu, thí như biển lớn. Bồ Đề cao
rộng, ví như Tu Di, tự thân oai quang, vượt
hơn trời trăng, tâm ấy trắng
sạch, giống như núi tuyết. Nhẫn
nhục như đất, tất cả b́nh
đẳng. Thanh tịnh như nước,
tẩy sạch trần cấu. Hừng hực như
lửa, đốt sạch phiền năo, không dính
như gió, không các chướng ngại. Pháp âm
như sấm, giác kẻ chưa giác. Mưa pháp
Cam lồ, nên nhuận chúng sinh. Rộng như hư
không, đại từ b́nh đẳng, như
hoa sen tịnh, nên ĺa ô nhiễm, như cây Ni Câu,
nên che mát khắp, như chày Kim Cang, phá tan tà
chấp, như núi Thiết Vi, chúng ma ngoại
đạo, không thể lung lay. Tâm kia chánh
trực, khéo léo quyết định, luận pháp
không chán, cầu pháp không mỏi. Giới như
lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời nói phát
ra, khiến chúng vui phục. Đánh trống pháp,
dựng pháp tràng, diệu huệ nhật, phá si
mê. Thuần tịnh an ḥa, tịch định
minh sát. Làm đại đạo sư, điều
phục ḿnh người, dẫn đạo
quần sinh, xả bỏ ái trước,
hằng ĺa ba độc, du hí thần thông. Nhân
duyên nguyện lực, phát sinh thiện căn, hàng
phục ma quân, tôn trọng phụng sự,
tất cả chư Phật, làm đèn sáng soi
đời, làm ruộng phước tối
thắng. Tốt lành thù đặc, kham thọ cúng
dường, hớn hở vui mừng, dơng mănh vô
úy, thân sắc tướng tốt, công đức
biện tài, trang nghiêm đầy đủ,
chẳng ai sánh bằng, thường được
chư Phật, đồng thanh khen ngợi,
rốt ráo Bồ Tát, các Ba La Mật, và thường
an trú, nơi tam ma địa, không sinh không
diệt, đi khắp đạo tràng, xa
cảnh Nhị Thừa.
Này ông A Nan! Ta nay
lược nói, cơi Cực Lạc kia, chỗ
Bồ Tát sinh chân thật công đức,
thảy đều như thế. Nếu nói
rộng ra, trăm ngàn vạn kiếp, cũng không
cùng tận.
PHẨM
BA MƯƠI HAI
THỌ
LẠC VÔ CỰC
(Thọ
vui không cùng tận)
Phật bảo
Bồ Tát Di Lặc: Các hàng Trời Người...
Nước Vô Lượng Thọ, Thanh Văn
Bồ Tát, công đức trí huệ, không
thể nói hết. Lại cơi nước ấy,
vi diệu an lạc, thanh tịnh như thế, làm
sao mà không đủ sức làm lành, niệm
đạo tự nhiên? Ra vào cúng dường,
chiếu soi kinh pháp, vui thích hành đạo, lâu
dài huân tu, tài trí dơng mănh, tâm không thối
chuyển, ư không giải đăi. Ngoài như
chậm hoăn, trong ứng xử nhanh, tâm lượng
bao dung, ví như hư không, thích nghi Trung đạo,
trong ngoài tương ưng, nghiêm chỉnh
tự nhiên, thúc liễm đoan trực. Thân tâm
khiết tịnh, tham ái không khởi, chí
nguyện an định, không tăng khuyết
giảm, cầu đạo ḥa chánh, không nghiêng
theo tà, y lời kinh dạy, chẳng dám sai
quấy, như dây chỉ mực, thảy đều
mộ đạo, rỗng rang vô niệm, không
khởi ưu tư, tự nhiên vô vi, hư không
chẳng lập, đạm bạc an nhiên, làm
đặng nguyện lành, không tham không muốn,
hết ḷng cầu sách, thương xót từ
mẫn, lễ nghĩa đều hợp, bao dung
sự lư, siêu độ giải thoát. Tự nhiên
ǵn giữ, chân chân tinh khiết, chí nguyện vô
thượng, tịch định an lạc.
Một mai khai thông triệt sáng, trong tướng
tự nhiên, bản nhiên thanh tịnh, ánh sáng vô
lượng, dung hóa tự nhiên, chuyển
biến tối thắng. Uất Đơn thành
bảy báu, ngang trải thành vạn vật. Quang
tinh minh đồng hiện, tốt lành thù đặc,
không đâu sánh bằng. Hiển minh không trên dưới,
thông suốt không ngằn mé, tự thân cần
tinh tấn, nỗ lực tự cầu đạo,
tất triệt để siêu thoát, văng sinh
về cơi nước, có vô lượng thanh
tịnh, của Phật A Di Đà. Dứt hẳn
trong năm đường, nẻo ác tự
đóng chặt. Đạo thù thắng vô biên,
dễ đến mà không người, nước
đó không nghịch cảnh, tự nhiên dắt
dẫn theo, chí xả như hư không, siêng tu
cầu đạo đức, măi măi đặng
sống lâu, thọ lạc không cùng tận. Đâu
phải như việc đời, ray rứt
lẽ vô thường.
PHẨM
BA MƯƠI BA
KHUYẾN
DỤ SÁCH TẤN
Người đời
tranh nhau, những việc không đâu, trong
chốn ác nghiệp, cùng bao sự khổ, siêng
làm kinh doanh, tự cung dưỡng thân. Cao sang
nghèo khó, lớn nhỏ nam nữ, suy nhớ
chồng chất, do tâm sai sử, không ruộng
lo ruộng, không nhà lo nhà, họ hàng của
cải, có không cũng lo, được một
thiếu một, lo cho bằng người.
Vừa được chút ít, lại càng lo hơn,
nước lửa giặc trộm, oan gia trái
chủ, đốt phá cướp giựt,
hủy diệt tiêu tan, tâm tham ư chấp, không
thể buông bỏ, mạng chung xuôi tay, chẳng
mang được ǵ. Nghèo giàu như nhau,
khổ lo muôn mối.
Người trong
thế gian, cha con anh em, vợ chồng quyến
thuộc, yêu kính lẫn nhau, không ganh ghét nhau, có
không thông nhau, không được tham tiếc,
sắc mặt lời nói, thường phải
nhu ḥa, chớ nên chống trái. Lỡ lúc tranh căi,
có chỗ sân giận, đời sau chuyển
tiếp, trở thành đại oán. Những
việc thế gian, rốt gây họa nhau, tuy chưa
tới lúc, nên gấp “tưởng phá”, người
nhiễm ái dục, sinh một ḿnh tử một
ḿnh, đến đi một ḿnh, khổ vui
tự nhận, không ai gánh thay. Thiện ác
biến hóa, nghiệp thức theo đuổi,
đường đạo không đồng, không
lúc gặp lại. Sao lúc c̣n khỏe, không
gắng tu thiện, c̣n đợi bao giờ? Người
đời thiện ác, tự ḿnh chẳng
thấy, lành dữ họa phúc, tranh nhau tạo tác,
tâm mê thần ám, triển chuyển gây
nghiệp, điên đảo tương tục,
vô thường là gốc, mờ mờ mịt
mịt, không tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa, ham
muốn thỏa thích. Mê muội sân giận, tham
tài đắm sắc, rốt cùng chẳng
dứt, thật đáng thương thay! Người
trước không thiện, không biết đạo
đức, không ai khuyến tấn, chẳng ǵ
làm lạ! Con đường sinh tử, đạo
lư thiện ác, chẳng chút ḷng tin, cho là không có,
cùng nhau quán sát, rành rành trước mắt.
Hoặc cha khóc
con, hoặc con khóc cha, anh em chồng vợ, cùng
nhau thương khóc, nhất tử nhất sinh,
thay nhau quyến luyến, thương lo ràng
buộc, không lúc tháo gỡ, tư tưởng
ân hảo, không ĺa t́nh dục, không cân nhắc
kỹ, không chuyên hành đạo, tuổi
thọ hết rồi, đối phó sao đây!
Người mê hoặc nhiều, kẻ ngộ
đạo ít, cưu mang sát độc, ác khí
mịt mù, vọng tâm hưng khởi, trái
nghịch trời đất, buông lung tạo
tội, cướp nhanh mạng sống, đọa
thẳng đường ác, chẳng có ngày ra.
Mọi người phải nên, nghĩ suy chín
chắn, xa ĺa việc ác, chọn đường
lương thiện, siêng năng thực hành,
sang giàu thương muốn, không thể bền
giữ, đều phải lánh xa, chẳng
thể an vui. Phải nên tinh tấn, sinh nước
An Lạc, trí huệ thông suốt, công đức
thù thắng. Chớ nên phóng tâm, vào chỗ ham
muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng
sau người.
PHẨM
BA MƯƠI BỐN
TÂM
ĐƯỢC MỞ SÁNG
Di Lặc bạch
rằng: “Phật nói giáo giới, rất sâu
rất khéo, đều nhờ ân lành, giải
thoát ưu khổ. Phật là vua Pháp, tôn siêu
“trong hàng Thánh”, quang minh chiếu suốt, rơ
thông “không ngằn mé”, rộng làm đạo
sư, tất cả trời người. Nay
được gặp Phật, lại cũng
được nghe, tiếng Vô Lượng
Thọ, thảy đều hoan hỷ, tâm
được mở sáng”.
Phật bảo Di
Lặc: “Người tôn kính Phật, là
việc lành lớn, thật nên niệm Phật,
dứt đoạn hồ nghi, nhổ gốc ái
dục, ngăn các nguồn ác, dạo khắp ba
cơi. Không chỗ ngăn ngại, mở bày Chánh
đạo, độ người chưa độ.
Phải nên biết rằng, nhân dân mười
phương, nhiều kiếp đến nay, luân
chuyển năm đường, khổ lo không
dứt, lúc sinh khổ đau, già cũng khổ
đau, bệnh vô cùng khổ, chết vô cùng
khổ, mùi hôi bất tịnh, chẳng có ǵ vui.
Phải tự quyết định, rửa
sạch tâm nhơ, nói làm trung tín, trong ngoài tương
ứng. Người hay tự độ, qua
lại giúp nhau. Chí tâm cầu nguyện, chất
chứa gốc lành, tuy cả một đời,
tinh tấn cần khổ, chỉ trong khoảnh
khắc. Sau được sinh về, nước
Vô Lượng Thọ, vui sướng không cùng.
Vĩnh viễn nhổ tận, cội gốc sinh
tử, chẳng c̣n khổ lo, sống ngàn
vạn kiếp, tự tại tùy ư. Người
người tinh tấn, cầu chỗ tâm
nguyện, chớ nên nghi hối, tự gây
lỗi lầm, sinh chốn biên địa, trong
thành bảy báu, suốt năm trăm năm,
chịu bao khổ nạn”.
Di Lặc bạch
rằng: “Nhận lời chỉ dạy, sáng
suốt của Phật, chuyên tinh tu học, y giáo
phụng hành, không dám sinh nghi”.
PHẨM
BA MƯƠI LĂM
TRƯỢC
THẾ ÁC KHỔ
(Đời
trược ác khổ)
Phật bảo Di
Lặc: Các ông có thể, ở trong đời này,
tâm đoan ư chánh, không làm việc ác, thật là
đức lớn. Tại v́ sao thế? Mười
phương thế giới, thiện nhiều ác
ít, dễ bề khai hóa. Duy thế gian này, ngũ
ác kịch khổ. Nay ta cơi này, thị hiện
thành Phật, giáo hóa quần sinh, khiến
xả năm ác, trừ năm thống khổ, ĺa
năm thiêu đốt, khiến đặng điều
phục, giáo hóa tâm ư, khiến giữ năm
thiện, đặng nhiều phước đức.
Những ǵ là năm?
Thứ
nhất đó là: Thế gian chúng sinh, ưa làm
điều ác, kẻ mạnh hiếp yếu,
thay nhau thù phá, tàn hại sát thương, ăn
nuốt lẫn nhau, chẳng biết làm thiện,
sau chịu ương phạt, nên có nghèo cùng,
ăn xin cô độc, đui điếc câm
ngọng, si ác điên cuồng, do nhân đời
trước, không tin đạo đức, không
chịu làm lành. Lại có những bậc, tôn
quư hào phú, Hiền minh Trưởng giả, trí
dũng tài đạt, do nhân đời trước,
từ hiếu tu thiện, tích đức gây nên.
Thế gian chuyện này, rành rành trước
mắt.
Khi tuổi thọ
dứt, đọa chốn u minh, chuyển sinh
thọ thân, biến dạng cải h́nh, nên có
địa ngục, cầm thú các loài, ḅ bay máy
cựa. Thí như thế pháp, lao tù ngục
tối, khốn khổ cực h́nh, thần
hồn điêu đứng, tùy tội hướng
tới, thân mạng chỗ thọ, hoặc dài
hoặc vắn, thọ sinh theo nhau, báo đền
lẫn nhau, ương ác chưa dứt, rốt
chẳng ĺa được, xoay vần trong đó,
nhiều kiếp khó ra, khó đặng giải
thoát, đau không kể xiết!
Ở trong trời
đất, nghiệp vận tự nhiên,
những việc báo ứng, tuy không tức
thời, nhưng khi tới lúc, thiện ác
hội về, phải thọ quả báo.
Thứ hai đó là:
Nhân dân thế gian, không thuận pháp độ,
kiêu xa dâm dục, buông lung phóng túng. Bậc trên
không sáng, tại chức không chánh, hại người
oan uổng, thiệt kẻ trung lương, tâm
miệng trái ngược, lăng xăng dối
trá. Trên dưới trong ngoài, lừa dối
lẫn nhau, sân giận ngu si, cầu tự
lợi ḿnh, tham lam muốn nhiều, hơn thua
lợi hại, kết giận thành thù, nhà tan
mạng mất, chẳng nghĩ trước sau.
Giàu có bỏn sẻn, không chịu bố thí,
nặng tham quư ái, tâm lao thân khổ, như
thế mạng chung, chẳng mang được
ǵ. Thiện ác họa phúc, theo mạng sinh ra,
hoặc ở chỗ vui, hoặc vào khổ độc,
thấy người làm thiện, ganh ghét hủy
báng, không tâm hâm mộ, thường hay lấy
cắp, lợi của người khác, dùng
tự cung cấp, tiêu hết lại lấy,
thần minh rơ biết, chết sa đường
ác, trải trong ba ngă, vô lượng khổ năo,
luân chuyển trong đó, nhiều kiếp khó ra,
đau không kể xiết!
Thứ ba đó là:
Nhân dân thế gian, theo nhân sinh gởi, mạng
thọ bao lâu! Những kẻ bất lương,
thân tâm bất chánh, ôm ḷng tà ác, thường
tưởng dâm dục, phiền năo đầy
ngực, thái độ nh́n sai, chạy theo bên
ngoài, tốn hao tiền của, việc làm phi pháp,
chỗ cần nên làm, lại chẳng chịu làm,
kết giao tụ tập, dấy binh đánh nhau,
công kích sát phạt, bức hiếp cưỡng
đoạt, về nuôi vợ con, tận sức
làm vui, người người chán ghét, tai
ương khổ nạn. Việc ác như
thế, người, quỷ rành rơ, thần minh
ghi biết, rơi ba đường ác, vô biên
khổ năo, xoay vần trong đó, nhiều
kiếp khó ra, đau không kể xiết!
Thứ tư đó
là: Nhân dân thế gian, chẳng nhớ tu
thiện, nói lưỡi hai chiều, miệng nói
lời ác, dối trá thêu dệt, ganh ghét kẻ
hiền, phá hoại hiền minh, bất hiếu
mẹ cha, coi nhẹ sư trưởng, đối
bạn chẳng tin, khó đặng thành thật,
tự cao tự đại, tự cho hiểu
đạo, hoành hành oai thế, lấn lướt
mọi người, muốn người kinh
sợ, không tự hổ thẹn, khó hàng khó
chuyển, thường ôm kiêu mạn, ỷ
lại đời trước, được phước
hộ tŕ, đời này làm ác, phước
đức hết tận, thọ mạng không c̣n,
các ác đến vây. Lại tên tuổi họ,
ghi tại thần minh, ương họa dẫn
dắt, chẳng thể trốn chạy, chỉ
phải đi tới, vào chốn hỏa ngục,
thân tâm tan nát, thần h́nh khổ cực. Đến
lúc đó rồi, hối hận sao kịp?
Thứ năm
đó là: Nhân dân thế gian, ỷ lại
biếng lười, không chịu làm thiện,
tu thân sửa nghiệp. Lời cha mẹ dạy,
chống trái phản nghịch, coi như oan gia,
không biết phận con, phụ ân bội nghĩa,
chẳng chút báo đền, phóng túng du đăng,
đam mê tửu sắc, gây gỗ xung đột,
không biết t́nh người, vô nghĩa vô
lễ, không thể can ngăn. Sáu hàng quyến
thuộc, tiền của có không, chẳng thèm
đoái hoài, chẳng nghĩ “công ơn cha
mẹ”, không c̣n “t́nh nghĩa thầy bạn”.
Thân khẩu và ư, chưa từng một
thiện, không kính tin Phật, không kính trọng
Pháp, không tin sinh tử thiện ác, muốn
hại người chơi, náo loạn tăng chúng,
ngu si mê muội, cho ḿnh trí huệ, nhưng không
đặng biết, sinh từ đâu tới,
chết đi về đâu, bất nhân bất
thuận, vọng cầu sống lâu. Từ tâm
khuyên dạy, mà chẳng chịu tin, đắng
miệng nhọc lời, với họ chẳng
ích, trong tâm bế tắc, ư không khai giải. Đại
mạng đến kề, hối hận đă
muộn, trước chẳng tu thiện, lâm
chung mới hối, làm sao cho kịp!
Ở trong trời
đất, năm nẻo rành rành, thiện ác báo
ứng, họa phước nối nhau, tự làm
tự chịu, không ai gánh thay.
Người
hiền làm thiện, từ vui vào vui, từ sáng
vào sáng. Kẻ dữ làm ác, từ khổ vào
khổ, từ tối vào tối, có ai hay
biết! Chỉ Phật rơ biết. Lời
dạy mở bày, ít kẻ tin làm, sinh tử
chẳng dừng, đường ác không dứt,
người đời như thế, khó thể
dứt tận. Thế nên tự nhiên, có ba
đường ác, vô lượng khổ năo,
xoay vần trong đó, đời đời
kiếp kiếp, không có ngày ra, khó đặng
giải thoát, đau không kể xiết!
Năm ác năm
khổ, năm thiêu như thế, ví như
lửa lớn, thiêu đốt thân người.
Nếu từ trong đó, tận chế tâm ư,
đoan thân chánh niệm, nói làm đi đôi,
chỗ làm chí thành. Chỉ làm việc thiện,
không làm việc ác, thân tự độ thoát,
đặng phước đức kia, mạng
sống dài lâu, đặng đạo Niết Bàn,
là năm thiện lớn.
PHẨM
BA MƯƠI SÁU
TRÙNG
TRÙNG HỐI MIỄN
(Nhiều
lần khuyên gắng)
Phật bảo Di
Lặc: Ta bảo các ông, năm ác, năm
khổ, năm thiêu như thế, luân chuyển
sinh nhau, nếu phạm điều này, phải
trải đường ác. Hoặc trong hiện
đời, trước bị bệnh ương,
sống chết chẳng đặng, chỉ cho
đại chúng.
Hoặc lúc
mạng chung, vào ba đường ác, khổ
đau sầu thống, tự cùng thiêu cháy. Oan
gia gặp gỡ, giết hại lẫn nhau,
khởi từ việc nhỏ, kết thành
khổ lớn, đều do tham nhiễm, trước
tài đắm sắc, không chịu thi ân, tự
cầu sướng thân, không kể phải
quấy, si dục bức bách, tranh lợi về
ḿnh. Giàu sang vinh hiển, đương thời
thỏa thích, không hay nhẫn nhục, không lo tu
thiện, oai thế chẳng bao, tùy thời tiêu
dứt. Đạo lư tự nhiên, vận hành
hiển phát, bơ vơ kinh hoàng, sẽ đọa
vào đó, xưa nay đều vậy, đau
khổ đáng thương. Các ông thảy đều
được kinh Phật dạy, chiếu soi
cặn kẽ, giữ ḿnh đoan chánh, trọn
đời không lười, tôn Thánh kính
thiện, nhân từ bác ái, phải cầu độ
thế, bứng gốc sinh tử, dứt
sạch mầm ác, ĺa ba đường dữ,
sợ đường thống khổ.
Nếu gặp
việc thiện, trước nhất làm ǵ? Tâm
phải tự đoan, thân phải tự đoan,
mắt tai miệng lưỡi, đều
phải tự đoan. Thân tâm đều giữ,
thanh tịnh trong sạch, cùng thiện tương
ưng, đừng theo tham dục, không phạm
điều ác, sắc mặt lời nói,
phải nên nhu ḥa, hành thân phải chuyên, cử
chỉ ngó nh́n, an định từ tốn, làm
việc cẩn trọng, sau khỏi hối
hận, v́ không chân thật, luống uổng công
phu.
PHẨM
BA MƯƠI BẢY
NHƯ
NGHÈO ĐẶNG CỦA BÁU
Như các ông
đặng, rộng trồng gốc đức,
chớ phạm đạo cấm, nhẫn
nhục tinh tấn, từ tâm chuyên nhất, trai
giới thanh tịnh, một ngày một đêm,
th́ thù thắng hơn, nước Vô Lượng
Thọ, làm thiện trăm năm. Tại v́ sao
thế? Bởi cơi Phật kia, chứa đầy
đức thiện, chẳng tơ hào ác. Cơi này
tu thiện, mười ngày mười đêm,
thù thắng hơn các cơi Phật phương khác,
làm thiện ngàn năm. Tại v́ sao thế? Cơi
Phật phương khác, phước đức
tự nhiên, không chỗ tạo ác, chỉ
thế gian này, thiện ít ác nhiều, uống
khổ ăn độc, chưa từng ngưng
nghỉ, Ta thương các ông, khổ tâm khuyên
dạy, trao cho kinh pháp, thảy đều
thọ tŕ, quán chiếu, phụng hành. Trai gái
sang hèn, bà con bạn bè, thay nhau dạy bảo, cùng
nhau kiểm thảo, nghĩa lư thuận ḥa, vui
vẻ hiếu hiền. Chỗ làm nếu
phạm, phải tự hối lỗi, bỏ ác
làm thiện, sáng nghe chiều sửa, phụng
kinh tŕ giới, cũng giống như kẻ nghèo
đặng của báu, chuyển trước
sửa sau, tẩy sạch tâm nhơ, cải
sửa hành vi, tự nhiên cảm nhận,
nguyện ước thành đạt, ở
chỗ Phật hành, nước thành tụ
lạc, đều được giáo hóa. Thiên
hạ ḥa thuận, trời trăng trong sáng, mưa
gió thuận thời, tai dịch chẳng khởi,
nước thạnh dân an, binh đao chẳng
động, trọng sùng nhân đức, chuyên hành
lễ giáo, nước không trộm cắp, không
có oan uổng, mạnh không hiếp yếu, người
người đắc ư. Ta thương các ông,
hơn cha mẹ thương. Ta cơi này thành
Phật, lấy thiện trừ ác, nhổ
gốc khổ sinh tử, khiến đặng năm
đức, đặng an vô vi. Ta vào Niết Bàn,
kinh đạo lần diệt, nhân dân tà
ngụy, lại làm điều ác, năm thiêu năm
khổ, lâu sau càng nguy. Các ông thay nhau, khuyên lơn
nhắc nhở, y kinh pháp Phật, chớ nên trái
phạm.
Di Lặc Bồ Tát,
chắp tay bạch rằng: Người đời
khổ ác, như thế như thế, Phật
đều thương xót, Phật đều
độ thoát, chúng con xin vâng, theo lời
Phật dạy, không dám trái phạm.
PHẨM
BA MƯƠI TÁM
LỄ
PHẬT HIỆN QUANG
(Lễ
Phật hiện ánh sáng)
Phật bảo A
Nan: “Các ông muốn thấy, Vô Lượng
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác và chư vị
Bồ Tát, các A La Hán, cơi nước đang
ở, nên hướng về Tây, phía mặt
trời lặn, cung kính đảnh lễ, xưng
niệm Nam Mô A Di Đà Phật”.
A Nan liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, mặt
hướng về Tây, chắp tay đảnh
lễ, rồi bạch Phật rằng: Con nay
nguyện thấy, thế giới Cực Lạc,
Phật A Di Đà, phụng sự cúng dường,
trồng các căn lành. Đang khi đảnh
lễ, bỗng dưng được thấy,
Phật A Di Đà, dung nhan quảng đại,
sắc tướng đoan nghiêm, như ngọn
núi vàng, cao vượt hơn hết, tất
cả thế giới. Lại cũng nghe đặng,
chư Phật Như Lai, mười phương
thế giới, xưng dương tán thán,
Phật A Di Đà, các thứ công đức, không
ngại không dứt.
A Nan bạch
rằng: “Cơi Phật tịnh đó, chưa
từng có được, con cũng nguyện thích
sinh về cơi đó”.
Thế Tôn bảo
rằng: “Người sinh nước đó,
đă từng gần gũi, vô lượng chư
Phật, trồng các cội đức. Muốn
sinh về đó, cần phải nhất tâm, quy
y chiêm ngưỡng”.
Khi nói lời này,
Phật A Di Đà, liền từ ḷng tay, phóng vô lượng
quang, chiếu khắp tất cả, thế
giới chư Phật. Ngay trong lúc ấy, cơi nước
chư Phật, thảy đều hiện rơ,
trong khoảng một tầm, thảy đều
do nơi, quang minh thù thắng, vô cùng thanh
tịnh, của Phật Di Đà. Trong thế
giới này, núi Đen núi Tuyết, Kim Cang Thiết
Vi, các núi lớn nhỏ, sông ng̣i rừng cây,
cung điện trời người, tất
cả cảnh giới, chiếu soi nơi nơi.
Như mặt trời mọc, chiếu sáng
thế gian, tận đường địa
ngục, cho đến hang hốc, những
chỗ tối tăm, thảy đều khai thông,
đồng một sắc sáng. Giống như
nạn nước, đầy khắp thế
giới, vạn vật trong đó, ch́m lỉm không
hiện, bao trùm muôn vật, chỉ thấy toàn
nước, quang minh Phật kia, cũng giống
như thế. Bồ Tát Thanh Văn, tất
cả quang minh, đều bị ẩn mờ,
chỉ ánh sáng Phật, minh hiện chiếu
diệu. Bốn chúng trong hội, Trời
Rồng, Tám Bộ, Người và Phi Nhân...
thảy thảy đều thấy, thế
giới Cực Lạc, các thứ trang nghiêm:
Phật A Di Đà, ngồi trên ṭa cao, uy nghi oai
đức, tướng tốt sáng chói, Bồ Tát
Thanh Văn, cung kính vây quanh. Cũng thí như là:
núi chúa Tu Di, vươn khỏi mặt biển,
sáng rực chiếu diệu, thanh tịnh
bằng thẳng, không có tạp uế, không h́nh
loại khác, chỉ toàn các thứ, quư báu trang
nghiêm, Thánh hiền đồng trú. A Nan cùng
với, các chúng Bồ Tát, đều rất vui
mừng, hớn hở đảnh lễ, cúi
đầu sát đất, xưng niệm Nam Mô A
Di Đà Phật, Chánh Đẳng Chánh Giác. Chư Thiên
nhân dân, cho đến các loài, ḅ bay máy cựa,
thấy ánh sáng này, tất cả bệnh
khổ, không chi chẳng dứt. Tất cả
ưu năo, đều được giải thoát,
thảy thảy đều phát, tâm từ tu
thiện, hoan hỷ khoái lạc. Chuông khánh đàn
cầm, và đàn không hầu, không đánh
tự nhiên, cũng phát ngũ âm. Trong cơi nước
Phật, chư Thiên nhân dân, đều đem hương
hoa, tận trên hư không, rải khắp cúng dường.
Vào lúc bấy giờ, thế giới Cực
Lạc, về phía hướng Tây, trăm ngàn câu
chi na do tha nước, nhờ thần lực
Phật, như hiện trước mắt, như
thiên nhăn tịnh, quán một tầm đất.
Kia thấy cơi này, cũng lại như vậy:
Cũng đều thấy đặng “Thế
giới Ta Bà, Thích Ca Như Lai, và các Tỳ Kheo,
vây quanh thuyết pháp”.
PHẨM
BA MƯƠI CHÍN
TỪ
THỊ THUẬT CHỖ THẤY
Bấy giờ Đức
Phật bảo A Nan và Bồ Tát Từ Thị: Các
ông có thấy, thế giới Cực Lạc,
cung điện lầu các, ao suối rừng cây,
đầy đủ vi diệu, trang nghiêm thanh
tịnh? Các ông có thấy, chư thiên cơi
Dục, trên đến trời Sắc Cứu Cánh,
rải các hương hoa, khắp cơi Phật chăng?
A Nan bạch
rằng: Vâng! Đă thấy rồi.
Các ông có nghe, A Di
Đà Phật, đại âm tuyên bố, tất
cả thế giới, giáo hóa chúng sinh?
A Nan bạch
rằng: Vâng! Con đă nghe.
Phật bảo A
Nan: Các ông có thấy, trong cơi nước đó,
các chúng tịnh hạnh, dạo trong hư không,
cung điện tùy thân, không có trở ngại,
biến khắp mười phương, cúng dường
chư Phật, và họ niệm Phật không
ngừng hay không? Lại các loài chim, trụ
giữa hư không, phát ra pháp âm, đều do
biến hóa, ông đều thấy chăng?
Từ Thị
bạch rằng: “Như lời Phật dạy,
mỗi mỗi đều thấy”.
Phật bảo Di
Lặc: Những người nước kia, có
người thai sinh, ông có thấy không?
Di Lặc bạch
rằng: Thế Tôn! Con thấy, thế giới
Cực Lạc, nhân dân trụ thai, như ở
cung điện, của trời Dạ Ma, lại
thấy chúng sinh, ở trong hoa sen, ngồi
thế kiết già, tự nhiên hóa sinh. Do nhân duyên
ǵ, mà nhân dân kia, có người thai sinh, có người
hóa sinh?
PHẨM
BỐN MƯƠI
BIÊN
ĐỊA NGHI THÀNH
Phật bảo
Từ Thị: Nếu có chúng sinh, lấy tâm nghi
hoặc, tu các công đức, nguyện sinh nước
đó, không rơ trí Phật, trí không nghĩ bàn,
trí không xưng lường, trí rộng đại
thừa, vô đẳng vô luân, thù thắng
tối thượng. Đối các trí này, nghi
hoặc chẳng tin, nhưng tin tội phước,
tu tập gốc thiện, nguyện sinh nước
đó. Lại có chúng sinh, chứa nhóm căn lành,
mong cầu trí Phật, trí phổ biến, trí vô
đẳng, oai đức rộng lớn, trí không
nghĩ bàn. Nơi thiện căn ḿnh, không
thể sinh tin, nên việc văng sinh, nước
Phật thanh tịnh, ư chí do dự, không
được chuyên tâm, song do tương
tục, niệm Phật không dừng, đem
nguyện lành ḿnh, kết làm nguyện gốc,
tiếp đặng văng sinh. Những hạng người
này, bởi nhân duyên đó, tuy sinh nước
kia, không thể đến trước chỗ Vô
Lượng Thọ, con đường bị ngăn,
nơi biên địa Phật, trong thành bảy báu,
Phật chẳng làm thế, thân hành chỗ
tạo, tự tâm hướng tới, tuy
rằng cũng có, hoa sen ao báu, tự nhiên
thọ thân, ăn uống sung túc, như trời
Đao Lợi. Ở trong thành đó, không thể ra
đặng. Nhà ở trên đất, cao lớn
đều không theo như ư muốn, trong năm
trăm năm, thường không thấy Phật,
không nghe kinh pháp, không thấy Bồ Tát, Thanh Văn
Thánh chúng, trí tuệ người đó, không
được sáng suốt, hiểu kinh lại
ít, tâm không khai thông, ư không vui vẻ, cho nên người
đó, gọi là thai sinh. Nếu có chúng sinh, rơ
tin trí Phật, đến trí thù thắng, đoạn
trừ nghi hoặc, tin gốc lành ḿnh, làm các công
đức, chí tâm hồi hướng, đều
trong ao báu, tự nhiên hóa sinh, ngồi thế
kiết già, ở trong khoảnh khắc, thân tướng
quang minh, công đức trí huệ, như các
Bồ Tát, thành tựu đầy đủ.
Từ Thị nên biết, người hóa sinh kia,
trí huệ thù thắng.
C̣n người
thai sinh, trong năm trăm năm, không thấy
Tam Bảo, cũng không biết đặng, pháp
thức Bồ Tát, cũng không được
duyên, tu tập công đức, không nhân gần
gũi, Phật Vô Lượng Thọ, nên
biết người này, ở các đời trước,
không có trí huệ, rơi vào nghi lầm.
PHẨM
BỐN MƯƠI MỐT
HẾT
LẦM THẤY PHẬT
Ví như một
vị, vua Thánh Chuyển Luân, có ngục bảy
báu, con vua bị tội, đem giam vào đó. Lâu
đài cung điện, màn báu giường vàng,
lan can cửa sổ, bàn ghế trang sức,
kỳ diệu quư báu, ăn uống áo quần,
như vua Chuyển Luân, nhưng đem khóa vàng,
xích hai chân lại, tiểu vương tử
đó, có vui hay không?
Từ Thị
bạch rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Không
thể vui được, bị nhốt chỗ
tối, tâm chẳng tự tại. Nếu
tận dùng hết, các thứ phương
tiện, muốn cầu thoát khỏi, cậy
nhờ cận thần, rốt chẳng như ư.
Vua Chuyển Luân vui, mới đặng thoát ra.
Phật bảo Di
Lặc: Các chúng sinh đó, cũng lại như
thế. Nếu bị đọa lạc, vào
chỗ nghi hối, mong cầu trí Phật, đến
trí rộng lớn, song tự căn lành, không
thể sinh tin, nhưng do chỗ nghe, đặng
danh hiệu Phật, mới khởi ḷng tin, tuy
sinh nước kia, ở trong hoa sen, chẳng
xuất hiện đặng. Thai hoa nước
kia, tưởng như ở trong, cung điện
vườn hoa. Tại v́ sao thế? Trong đó
thanh tịnh, không có uế ác, suốt năm trăm
năm, không thấy Tam Bảo, không được
gần gũi, cúng dường chư Phật, xa
ĺa tất cả, gốc lành thù thắng,
lấy đấy làm khổ, chẳng sinh vui thích.
Nếu chúng sinh đó, biết gốc tội ḿnh,
đáy ḷng tự trách, cầu ĺa chốn
ấy, lỗi lầm đời trước,
thảy đều dứt sạch, mới
được thoát khỏi, liền đặng
sinh về, chỗ Vô Lượng Thọ,
lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ,
khai giải vui vẻ, cũng đặng cúng dường,
khắp vô lượng Phật, tu các công đức.
Này A Dật Đa! Là
vị Bồ Tát, đều nên biết rằng,
những sự nghi hoặc, là đại tổn
hại, làm mất lợi lớn, bởi thế
phải nên, rơ tin Trí Huệ Vô Thượng
của Phật.
Từ Thị
bạch rằng: V́ sao cơi này, có hạng chúng
sinh, tuy cũng tu thiện, chẳng cầu văng
sinh?
Phật bảo
Từ Thị: Hạng chúng sinh này, trí huệ
cạn cợt, phân biệt Tây phương, không
bằng cơi Trời, không có ǵ vui, nên chẳng
cầu sinh.
Từ Thị
bạch rằng: Những chúng sinh này, hư
vọng phân biệt, không cầu cơi Phật, sao
thoát luân hồi?
Đức Phật
dạy rằng: Hạng chúng sinh này, các căn lành
trồng, không hay ĺa tướng, không cầu
huệ Phật, đắm sâu dục lạc, phước
báo nhân gian. Tuy cũng tu phước, cầu
quả Trời Người. Đến khi quả
kết, tất cả đầy đủ, nhưng
chưa thể ra khỏi ngục ba cơi. Giả
sử như là: cha mẹ vợ con, quyến
thuộc nam nữ, muốn cùng cứu thoát, song
nghiệp tà kiến, chưa thể xả ĺa, luân
hồi chao đảo, không được
tự tại. Các ông hăy nh́n, bao kẻ ngu si, căn
lành không trồng, mà chỉ biết đem,
thế trí biện thông, tăng lớn tâm tà,
hỏi sao thoát khỏi, nạn lớn sinh tử.
Lại có chúng
sinh, tuy trồng căn lành, làm ruộng phước
lớn, nhưng tâm vẫn c̣n, trước tướng
phân biệt, t́nh chấp sâu nặng, cầu thoát
luân hồi, trọn không thể được.
Nếu ai biết đem, trí huệ vô tướng,
trồng các cội đức, thân tâm thanh
tịnh, xa ĺa phân biệt, cầu sinh Tịnh Độ,
hướng Phật Bồ Đề, sẽ sinh cơi
Phật, vĩnh viễn giải thoát.
PHẨM
BỐN MƯƠI HAI
BỒ
TÁT VĂNG SINH
Bồ Tát Di
Lặc, bạch Phật rằng nay, thế
giới Ta Bà, các cơi nước Phật, Bất
thối Bồ Tát, sẽ đặng sinh về,
nước Cực Lạc kia, số ấy bao nhiêu?
Phật bảo Di
Lặc: Ở thế giới này, có bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát, đă
từng cúng dường, vô số chư
Phật, trồng các cội đức, sẽ
sinh nước đó. Bồ Tát hạnh nhỏ,
tu tập công đức, sẽ được văng
sinh, không thể tính kể. Chẳng những cơi
ta, các vị Bồ Tát, văng sinh nước đó,
cơi Phật phương khác, cũng đặng
như thế. Từ ở phương xa,
chiếu soi cơi Phật, có đến mười
tám câu chi na do tha đại Bồ Tát, sinh
về nước đó. Về hướng Đông
Bắc, cơi Phật Bảo Tạng, có chín mươi
ức, Bồ Tát bất thối, sinh về nước
đó. Từ ở cơi nước Phật Vô Lượng
Âm, cơi Phật Quang Minh, cơi Phật Long Thiên, cơi
Phật Thắng Lực, cơi Phật Sư Tử,
cơi Phật Ly Trần, cơi Phật Đức
Thủ, cơi Phật Nhân Vương, cơi Phật
Hoa Tràng, Bồ Tát bất thối, văng sinh
về đó, hoặc mười trăm ức,
hoặc một trăm ngàn, đến một
vạn ức.
Phật thứ mười
hai, danh Vô Thượng Hoa, Ngài có vô số, các
chúng Bồ Tát, đều bất thối
chuyển, trí huệ dơng mănh, đă từng cúng
dường, vô số chư Phật, đủ
đại tinh tấn, thảy đều phát tâm,
hướng về Nhất thừa. Ở trong
bảy ngày, liền hay nhiếp thủ, trăm
ngàn ức kiếp. Đại sĩ chỗ tu, các
pháp kiên cố, các Bồ Tát ấy, đều
sẽ văng sinh.
Phật thứ mười
ba, danh gọi Vô Úy, Ngài có tất cả,
bảy trăm chín mươi ức đại
Bồ Tát, các tiểu Bồ Tát, và các Tỳ
Kheo... không thể tính kể, đều sẽ văng
sinh.
Mười phương
thế giới, danh hiệu chư Phật, và chúng
Bồ Tát, chỉ kể tên thôi, cùng kiếp
chẳng hết.
PHẨM
BỐN MƯƠI BA
CHẲNG
PHẢI LÀ TIỂU THỪA
Phật bảo
Từ Thị: Ông hăy quán sát, chư đại
Bồ Tát, khéo được lợi ích.
Nếu có thiện nam, và thiện nữ nào,
được nghe danh hiệu, Phật A Di Đà,
hay sinh một niệm, với tâm vui thích, quy y
chiêm lễ, y giáo tu hành, phải biết người
này, được lợi ích lớn, sẽ
đặng công đức, như trên đă nói,
tâm không hạ liệt, cũng không cống cao,
thành tựu căn lành, thảy đều tăng
thượng, phải biết người này, không
phải Tiểu thừa, trong giáo pháp ta,
được xưng gọi là, đệ
tử bậc nhất. Cho nên bảo ông, thế
gian Trời Người, A Tu La... nên: vui thích tu
tập, sinh tâm hy hữu, ở trong kinh này, sinh tưởng
đạo sư. Muốn khiến vô lượng,
hằng sa chúng sinh, nhanh chóng an trụ, được
bất thối chuyển, muốn thấy nước
kia, rộng lớn trang nghiêm, nhiếp thọ các
cơi nước Phật thù thắng, tṛn đầy
công đức. Phải phát tinh tấn, nghe pháp
môn này. Nên v́ cầu pháp, mà không sinh tâm,
thối chuyển hư ngụy, dù vào lửa
lớn, chẳng nên nghi hối. Tại v́ sao
thế? Bởi vô lượng ức vị
Bồ Tát kia, thảy đều mong cầu, pháp
môn vi diệu, tôn trọng lắng nghe, không sinh
chống trái. Có nhiều Bồ Tát, muốn nghe
kinh này, mà chẳng thể được. V́
thế các ông, phải cầu pháp này.
PHẨM
BỐN MƯƠI BỐN
THỌ
KƯ BỒ ĐỀ
Nếu trong
đời sau, măi cho đến khi, Chánh Pháp
bị diệt, sẽ có chúng sinh, trồng các
gốc lành, đă từng cúng dường, vô lượng
chư Phật. Do Như Lai kia, gia tŕ uy lực,
hay đặng pháp môn, quảng đại như
thế, nhiếp giữ thọ tŕ, sẽ
được rộng lớn, “Nhứt
Thiết Trí Trí”. Ở trong pháp đó, rộng
giải thù thắng, đặng hoan hỷ
lớn, rộng v́ người nói, thường
thích tu hành. Các chư thiện nam, và chư
thiện nữ, hay trong pháp này, nếu như
đă cầu, hiện cầu sẽ cầu,
đều đặng thiện lợi. Các ông
phải nên, an trụ không nghi, trồng các
cội lành, phải thường tu tập,
khiến không nghi trệ, không nhập tất
cả, các thứ trân báu, thành tựu lao
ngục.
Này A Dật Đa, như
thế các loài, kẻ oai đức lớn, hay
gặp pháp Phật, thông đạt rộng răi,
cửa pháp khác nhau. Bởi trong pháp này, không
chịu lắng nghe, nên ức Bồ Tát, tâm
bị thối chuyển, quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu có chúng
sinh, nơi kinh điển này, biên chép cúng dường,
thọ tŕ đọc tụng. Trong một
khoảnh khắc, v́ người diễn nói,
khuyến khích lắng nghe, không sinh ưu năo, cho
đến ngày đêm, nghĩ tưởng cơi
đó, và công đức Phật, nơi đạo
vô thượng, rốt không thối chuyển.
Người ấy lâm chung, giả sử ba ngàn
đại thiên thế giới, ch́m trong lửa
lớn, cũng đặng siêu hóa, sinh về
Cực Lạc. Người ấy đă từng,
gặp Phật quá khứ, thọ kư Bồ Đề,
tất cả Như Lai, đồng thời khen
ngợi. Thế nên cần phải, chuyên tâm tin
nhận, tŕ tụng nói làm.
PHẨM
BỐN MƯƠI LĂM
CHỈ
LƯU LẠI MỘT KINH NÀY
Ta nay do v́, các
chúng sinh thảy, nói kinh pháp này, khiến cho
thấy đặng, Phật Vô Lượng
Thọ. Và cơi nước kia, tất cả các
thứ, những ǵ sẽ làm, đều có
thể cầu. Không khéo sau khi, ta đă diệt
độ, lại sinh nghi hoặc, ở trong
đời sau, kinh đạo tận diệt, ta v́
tấm ḷng, từ bi thương xót, đặc
biệt lưu lại, chỉ một kinh này,
trụ thế trăm năm.
Có chúng sinh nào,
được gặp kinh này, tùy theo ư
nguyện, đều đặng độ thoát.
Như Lai
tại thế, khó gặp khó thấy. Kinh đạo
chư Phật, khó được khó nghe.
Gặp thiện tri thức, nghe pháp hay hành,
việc này cũng khó. Nếu nghe kinh này, tin
ưa thọ tŕ, là khó trong khó, chẳng ǵ khó
hơn.
Như có chúng
sinh, đặng nghe tiếng Phật, từ tâm
thanh tịnh, hớn hở vui mừng, tóc không
dựng đứng, hoặc chảy nước
mắt, đều do đời trước,
từng hành Phật đạo, chẳng phải
người phàm. Nếu nghe hiệu Phật,
trong ḷng hồ nghi, lời kinh Phật dạy,
thảy chẳng ḷng tin, đều do ở trong
đường dữ mà tới, tai ương
đời trước, chưa được
dứt tận, chưa được độ
thoát, nên tâm hồ nghi, chẳng hướng tin
vậy.
PHẨM
BỐN MƯƠI SÁU
CẦN
TU KIÊN TR̀
(Siêng
tu kiên tŕ)
Phật
bảo Di Lặc: Pháp vô thượng của chư
Phật Như Lai, mười lực vô úy, vô
ngại vô trước, pháp rất thậm sâu,
pháp Ba La Mật, của chư Bồ Tát,
chẳng phải dễ gặp. Người hay nói
pháp, cũng khó mở bày, vững chắc tin sâu,
thời cũng khó gặp.
Ta nay như lư,
mà tuyên nói các pháp môn rộng lớn, vi
diệu như thế, chỗ khen ngợi của
tất cả chư Phật, phú chúc các ông, làm
đại thủ hộ. V́ chúng hữu t́nh,
bị ch́m trong những đêm dài lợi dưỡng,
đừng để chúng sinh, luân chuyển năm
đường, chịu nhiều thống
khổ. Phải nên tu hành, tùy thuận ta
dạy. Đối Phật phải hiếu, thường
nhớ ơn thầy, khiến pháp môn này,
trụ lâu chẳng diệt, phải nên kiên tŕ,
không được bỏ mất, không
được khởi vọng, tăng giảm
kinh pháp, thường nhớ không dứt, nhanh
chứng đạo quả. Pháp ta như thế,
nên nói như thế. Chỗ Như Lai làm, cũng
nên làm theo, tu trồng phước thiện,
cầu sinh Tịnh Độ.
PHẨM
BỐN MƯƠI BẢY
PHƯỚC
HUỆ ĐƯỢC NGHE
Bấy giờ
Thế Tôn, mới nói kệ rằng:
Đời trước
nếu không tu phước huệ,
Nơi đây
chánh pháp chẳng thể nghe.
Đă từng
cúng dường các Như Lai,
Th́ hay vui
vẻ tin việc này.
Kiêu ác
giải đăi cùng tà kiến,
Khó tin pháp
vi diệu Như Lai,
Như người
mù hằng đi trong tối,
Không
thể mở đường cho kẻ khác.
Chỉ
từng đối Phật trồng căn
thiện,
Hạnh
nguyện cứu đời mới hay tu.
Nghe xong,
thọ tŕ và biên chép,
Đọc
tụng, xưng tán và cúng dường.
Như
thế nhất tâm cầu cơi Tịnh,
Quyết
định văng sinh nước Cực Lạc.
Giả
sử lửa lớn khắp tam thiên,
Nương
oai đức Phật đều được
thoát.
Biển trí
huệ Như Lai sâu rộng,
Chỉ
Phật cùng Phật mới hay biết;
Thanh Văn
ức kiếp suy Phật trí,
Đem hết
thần lực chẳng thể lường.
Công đức
Như Lai Phật tự biết,
Chỉ có
Thế Tôn hay khai thị
Thân người
khó được, Phật khó gặp,
Tín huệ
nghe pháp khó trong khó.
Nếu các
hữu t́nh sẽ làm Phật,
Vượt
hạnh Phổ Hiền lên bờ giác.
Thế nên
rộng nghe chư Trí sĩ,
Nên tin ta
dạy lời như thật.
Diệu pháp
như thế may được nghe,
Phải thường
niệm Phật mà sinh hỷ.
Thọ tŕ
rộng độ ḍng sinh tử,
Phật nói
người này thật bạn hiền.
PHẨM
BỐN MƯƠI TÁM
NGHE
KINH ĐƯỢC LỢI ÍCH
Bấy giờ
Thế Tôn, nói kinh pháp này, Trời Người
thế gian, có đến một vạn hai ngàn
na do tha ức chúng sinh, xa ĺa trần cấu,
được pháp nhăn tịnh. Có hai mươi
ức, chúng sinh chứng đắc, quả A Na Hàm.
Sáu ngàn tám trăm, chư vị Tỳ Kheo,
phiền năo đă sạch, tâm đặng
giải thoát. Có bốn mươi ức, chư
vị Bồ Tát, đối với quả
vị, Vô Thượng Bồ Đề, trụ
bất thối chuyển, công đức
hoằng thệ, đem tự trang nghiêm. Hai mươi
lăm ức, các loại chúng sinh, được
bất thối nhẫn. Có đến bốn
vạn ức na do tha, trăm ngàn chúng sinh, đối
với quả vị “Vô Thượng Bồ Đề”,
chưa từng phát ư, nay mới phát tâm.
Trồng các căn lành, nguyện sinh Cực
Lạc, thấy Phật Di Đà, đều sẽ
văng sinh, cơi Như Lai đó. Phương khác
từng người, thứ lớp thành
Phật, đồng một danh hiệu:
“Diệu Âm Như Lai”. Lại có chúng sinh, mười
phương cơi Phật, nếu hiện tại
sinh, hoặc vị lai sinh, thấy Phật Di Đà,
mỗi nơi có đặng, tám vạn câu chi na
do tha người, thọ kư pháp nhẫn, thành
tựu viên măn, “Vô Thượng Bồ Đề”.
Các hữu t́nh kia, đều do nhân duyên,
thệ nguyện đời trước, cùng
được văng sinh, thế giới Cực
Lạc.
Bấy giờ
tam thiên đại thiên thế giới, sáu
thứ chấn động, cùng hiện các
thứ, thần biến ít có, phóng “Đại
quang minh” chiếu khắp mười phương.
Lại có chư Thiên, ở trên hư không,
trổi lên điệu nhạc, phát âm tùy
hỷ. Cho đến chư Thiên, cơi trời
Sắc Giới, thảy đều được
nghe, khen chưa từng có. Hoa đẹp vô lượng,
phơi phới rơi xuống. Tôn giả A Nan,
Bồ Tát Di Lặc, các chư Bồ Tát, và chúng
Thanh Văn, Trời Rồng Tám Bộ, tất
cả đại chúng, vô cùng hoan hỷ, tin
nhận phụng hành.