Trang
Chủ
Niệm
Phật Có 10 Điều Lợi Ích Lớn
Những Chuyện Niệm Phật Văng Sanh Lưu Xá
Lợi
Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung
Các
Kinh, Sách Phật Giáo
Thuyết
Pháp - Video
Thuyết
Pháp - Audio
Các
Trang Web về Phật Giáo
Để thỉnh các dĩa Video và
Audio miễn phí - xin gởi email về
[email protected]
|
|
Nam Mô
A Di Đà Phật |
|
|
|
|
|
Tứ Hoằng Thệ Nguyện
Chúng Sanh Vô Biên, Thệ
Nguyện Độ. (1 lạy)
Phiền Năo Vô Tận,
Thệ Nguyện Đoạn. (1 lạy)
Pháp Môn Vô Lượng, Thệ
Nguyện Học. (1 lạy) Phật
Đạo Vô Thượng, Thệ Nguyện Thành. (1 lạy) |
|
|
|
|
|
CỤ
BÀ DIỆU-ÂM TÔ-VÂN-LIÊN
Văng sanh với những Huyền-Diệu
Tỳ Kheo Thích-Phổ-Huân
Những thập niên qua, từ khi đạo
Phật có mặt ở xứ Úc này, người
ta không có nghe có người tu Phật
chứng nghiệm một điều chi, hay
thoại ứng ǵ sau khi mất, hoặc
hiện c̣n sống mà hiển bày được
linh cảm, v.v…
Dù rằng việc này không thể phổ
biến hay phô bày, bởi lẽ sẽ ngược
với giáo lư nhà Phật. Tuy vậy với Phát
tu Tịnh-Độ niệm Phật cầu văng
sanh thật dễ thực hành, cũng vẫn
chưa thấy có người văng sanh. Nói như
thế không phải nghi ngờ pháp môn Niệm
Phật, v́ thật sự chưa thấy tin
tức rơ ràng. Nhưng nếu có người văng
sanh mà thân nhân không muốn phô bày tiết
lộ, th́ cũng không biết. Lại nữa,
trường hợp thân nhân không hiểu đạo
Phật, mà người nhà có văng sanh đi
nữa cũng chẳng phổ biến
được chi. Rồi th́, nếu người
văng sanh được an táng thay v́ hỏa táng,
thế ra cũng khó mà biết. Cho nên không
thể khẳng định đă có hay không,
người văng sanh lưu Xá-Lợi, và có th́
ai biết được đă bao nhiêu người!
Theo chúng tôi nghĩ chắc chắn phảI có,
nhưng không ai t́m hiểu và chẳng đủ
duyên phổ biến nên hiếm nghe như
vậy.
Cuối năm rồi (2000) chúng tôi có nhân duyên
nhận được quyển :Kỷ Yếu
Sư Bà Đàm-Lựu”, thấy việc văng sanh
lưu lại Xá-Lợi qúa nhiệm mầu, nên
trong dịp khóa Tu Bát Quan Trai chúng tôi có nói
chuyện giới thiệu đến qúy
Phật tử, th́ t́nh cờ một bác
Phật tử (Diệu-Qúy) nghe chuyện
vậy, mới cho hay có một vị Phật
tử người Hoa tu niệm Phật mất
đi để lại Xá-Lợi. Chúng tôi
lần hỏi ra mới biết sự thật,
c̣n được xem h́nh chụp Xá-Lợi
của vị cư sĩ đó. Vậy nếu
như đề tài nói chuyện hôm đó, không
phải là việc văng sanh, có lẽ việc văng
sanh tại Úc lặng lẽ đi vào qúa
khứ. Vậy mà nhân duyên cũng chưa đủ
để phóng tin cho Phật tử, v́ măi
đến bây giờ chúng tôi mới có
dịp kể ra, nếu không đón nhận
quyển sách “Những Chuyện Niệm
Phật Văng Sanh Lưu Xá-Lợi.” Rồi cũng
chẳng nghĩ đến việc viết
chuyện văng sanh này, v́ sự thật đă ràng
ràng như vậy, cần chi phân bua thêm
nữa! Chỉ nguyện một ḷng sự
thật đó sẽ đến với tất
cả người nào thực hành niệm
Phật. Riêng bản thân chúng tôi đă có
niềm tin từ khi mới vào đạo, và dù
không thấy Xá-Lợi chúng tôi vẫn không bao
giờ xoay chuyển niềm tin Tịnh-Độ.
Rồi nhân duyên qua cuộc điện đàm
với bác Tịnh-Hải (tác giả sưu
tầm biên soạn Sách Những Chuyện
NPVSLXL) từ Hoa Kỳ, về việc tái
bản ấn tống sách, chúng tôi mới
được bác khuyên, nên viết để
phổ biến cho mọi người, cũng
như gây tín tâm cho người niệm
Phật (Bác biết chuyện này là do Thầy
Bổn-Sư cho biết, trong lúc tôi vắng chùa.)
Tóm lại, đây là một nhân duyên cho
mọi người thấy rằng, pháp tu
xứng hợp thời nay, không ǵ hơn qua
niệm Phật, và hễ ở đâu có người
niệm Phật nơi đó có người văng
sanh.
Sau đây là chuyện một vị Ưu-Bà-Di
được văng sanh ngày 1-1-2000 (tức 25-11
năm Kỷ Măo) tại Sydney Úc-ĐạI-Lợi.
Bà Tô-Vân-Liên, ngườI Hoa, theo gia đ́nh
chồng di dân qua Việt Nam lúc 19 tuổi. Bà là
người chất phát hiền hậu,
chỉ một ḷng săn sóc gia đ́nh sao
được yên ổn hạnh phúc. Từ lúc
tạo đời sống mới ở Việt
Nam, gia đ́nh ngụ tại Tân Dịnh-Sài G̣n,
bà luôn luôn hy sinh tất cả để nuôi các
con sao được nên người, bản thân
bà không màng hưởng thụ một thứ
ǵ gọi là ngon tốt. Bà lại không than
thở, không khoe khoang bày tỏ cho người
khác biết. Nhờ vậy các con bà được
săn sóc nên người.
Vào năm 1978, bà được người
con gái du học tại Đài Loan bảo lănh.
Ở Đài Loan được 8 năm, bà
lại được bảo lănh qua Úc. Bà cũng
có hai người con trai, sống ở Mỹ,
Pháp và c̣n lại một trai, hai gái ở
Việt Nam. Ở Úc, hai người con gái bà
đă ổn định gia đ́nh. Gia đ́nh
bà theo đạo Khổng, chỉ thờ Ông Bà
tu nhân tạo phước. Đến khi định
cư ở Úc năm 1986 bà vẫn chưa
hiểu ǵ đạo Phật. Sau này vào năm
1991, hai người con gái có dẫn Mẹ
đi chùa lễ Phật, nhưng cũng
chỉ cầu an, phước lộc, tai qua
nạn khỏi. Cho đến năm 1997 nhân duyên
nghe băng giảng và diện kiến Pháp Sư
Tịnh-Không, vị Đại Sư chuyên về
Tịnh-Độ; bấy giờ hai người
con gái của bà mới thật sự chuyên tu
pháp môn Tịnh Độ, nhờ vậy bà cũng
được quy y với pháp danh Diệu-Âm và
biết niệm Phật, chính thức trở thành
Phật tử.
Những dịp không đến chùa, gia đ́nh
con gái bà cùng các bạn đạo tổ
chức tu niệm Phật tại nhà, như
thế làm bà cảm thấy pháp tu niệm
Phật thật gần gũi. Nhắc nhở bà
thường xuyên niệm Phật hằng ngày,
mà bà thường mở nghe để luôn luôn
miệng thầm niệm theo.
Đầu năm 1998 bà lâm bịnh; khi được
bác sĩ khám, mới hay bà bị ung thư
phổi. Gia đ́nh đă cố gắng
mọi phương tiện trị liệu cho bà,
tuy nhiên với bà, không cảm thấy lo
lắng sợ sệt. Bà tự nhận
rằng với tuổi 83 đă là qúa thọ,
nên bà vẫn sinh hoạt đi lại như thường;
bà c̣n tin vào pháp môn niệm Phật sẽ
được văng sanh sau khi chết, do đó
niệm Phật tinh tấn hơn mà chẳng
biết rằng ḿnh đang bịnh.
Khoảng bốn tháng sau, ngày 19-5-1998, được
tái khám, th́ dấu vết chứng bịnh ung
thư ở phổi tự nhiên biến mất.
Dịp này hai người con gái an tâm vui
mừng, và xin được dẫn bà đi
du lịch thăm bà con họ hàng.
Đầu năm 1999 bà lại được bác
sĩ tái khám, lần này bịnh tái phát
trở lại và có phần nguy kịch. Nhưng
với bà thật lạ, bà chẳng có ǵ thay
đổi, lộ vẻ ǵ của một người
đang mang bịnh nặng; vẫn ăn
uống b́nh thường. Gia đ́nh con cháu khi
săn sóc bà thường hỏi, bà có đau
không? Bà chỉ nói là mệt chứ không đau.
V́ biết bà hiểu Phật Pháp khá hơn,
đă niệm Phật tha thiết , tuổi
lại thọ, và là Phật tử có quy y
hẳn ḥi, nhất là bà c̣n sáng suốt, nên các
con đă bày tỏ kể rơ hiện t́nh
bịnh trạng cho bà nghe. Phản ứng
của bà không một chút ǵ sợ hăi; bà nghĩ
chẳng thấy đau bịnh ǵ, cần
phải lo chi! Do đó, ngày 22-2-1999, bà bảo
con gái đi đ́nh lại (cancel) việc chích
thuốc (thuốc giảm đau cầm
chừng trong thời gian chờ đợi) như
đă được định ngày. Nhân
đó cô Trân hỏi t́nh trạng của
Mẹ, th́ được trả lời, theo
bịnh trạng như thế sẽ chỉ c̣n
vài tháng mà thôi. Bấy giờ bà vẫn
niệm Phật như thường lệ, các
con bà lại cùng tâm niệm với bà nhất
tâm hướng về đức Phật A-Di-Đà
để nguyện bà được ra đi
nhẹ nhàng.
C̣n khoảng hai tháng trước ngày cuối
của bà; bà sốt sắng lau dọn nhà
cửa sạch sẽ như đoán trước
biết ngày ra đi, bà có nói “mai mốt tao
đi rồi ít có ai lo dọn dẹp.”
Đến lúc này bà vẫn khỏe đi lại
như người không bịnh, chỉ có
điều hơi mệt hơn trước,
chớ không đau đớn ǵ; điều này
thật lạ v́ bịnh ung thư nào trước
ngày sắp chết đều bị hành xác.
Một tháng sau, tức c̣n một tháng nữa,
bà lại đưa tiền dành dụm của
bà hơn một ngàn đồng cho con cháu mua máy
quay phim, việc này như để chuẩn
bị trong ngày ra đi của bà.
Tuần lễ nữa trôi qua, đúng vào ngày
lễ tốt nghiệp khóa học tiếng Hoa
của đứa cháu trai, bà lại được
mời tham dự. Đến trường dự
lễ vậy, chỉ có gia đ́nh là biết
bà bịnh, người ngoài không một ai
biết. Nh́n ảnh chụp bà đang bắt
tay vui vẻ với cô giáo trong ngày lễ hôm
ấy, chắc sẽ không ai ngờ, một người
mang chứng bịnh nan y đến thời
kỳ nặng nhất lại có thể trông
khỏe và tươi tỉnh vậy được!
Thật sự bà thỉnh thoảng có đau, và
cơn đau chỉ thấy rơ vào ngày
26-12-1999, nên trong ngày đó các con đă cho bà
uống 6 viên Panadol (giảm đau.) V́ rơ ràng
bộ phận phổi bên trong đă hoàn toàn hư
hại, tuy thế bà nói, khi phát lên cơn
đau th́ bà liền niệm Phật và tự
dưng giảm được cơn đau.
Đó là việc ngạc nhiên, tại sao bịnh
nặng như vậy mà bà vẫn trông như
người không bịnh, lại c̣n sống
được vui vẻ hơn mười tháng.
Xác thực việc nhiệm mầu này, là
tấm h́nh chụp chân dung bà với y áo trang
nghiêm, lại trông trẻ ra và thật hoan
hỷ ở số tuổi tám mươi lăm
(85)!
Bà c̣n tinh tấn tham dự khóa tu niệm
Phật một tuần lễ, do nhóm cư sĩ
tổ chức niệm Phật tại nhà. Trong
lúc này hai người con gái bà hơi lo, v́
sức khỏe bà bây giờ đă yếu
nhiều. Sợ bà mất ngay chưa tṛn khóa
tu, như vậy sẽ làm dở dang cho các
vị tịnh niệm v́ phải lo cho bà.
Việc thế này chắc bà đoán biết.
Gần cuối khóa tu bà không tham dự
trọn ngày được, nên phải chở
bà về nhà. Ở nhà bà vẫn niệm
Phật không ngừng. Không tham dự được
trọn ngày,bà xin tham dự một đến
hai tiếng.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 30-12-1999, thấy bà
có phần mệt nhiều, gia đ́nh
thuyết định đưa bà vào nhà thương
khám, v́ lo lắng sợ hành bà đau. Hơn
nữa người con rễ là bác sĩ
từ Đài Loan gọi qua khuyên đưa bà vào
bịnh viện, sợ để ở nhà
bịnh hành bà. Tuy vậy các con cháu gần bà
vẫn cảm thấy, bà dù mệt nhưng
tỉnh táo, nên chỉ mong rằng vào bịnh
viện sẽ trở ngại việc văng sanh.
Tâm niệm các con bà, cũng là tâm niệm
của bà. Việc này cho thấy gia đ́nh các
con cùng một tâm niệm mong ước
đưa bà về Tịnh-Độ, nên luôn luôn
trong tư thế sẵn sàng lo cho bà. Tâm
niệm chung như vậy khiến chiêu cảm
ra những điều lành suông sẻ, như
khi đưa bà vào bịnh viện đă không
báo trước, cũng không phải là t́nh
trạng khẩn cấp (emergency), vậy mà không
biết sao, hôm ấy không đợi ai,
được đưa thẳng vào bác sĩ
chuyên khoa. Bác sĩ khám xong, liền cho hay nước
trong người bà đă ngập qua phổi, t́nh
trạng thật nguy cấp. Thế là nước
được rút ra gần 2 lít, nhưng bác sĩ
xem lại chẳng thấy bớt được
bao nhiêu. Phần bà th́ cảm thấy khỏe
lại. Bác sĩ hỏi bà muốn ở
lại hay về. Bà trả lời muốn
về.
Cùng trong ngày 30 bà được đưa
về nhà, bà đi lại tự nhiên, ăn
được sáu miếng cam, rồi đi
tắm và vào pḥng niệm Phật. Bà ngồi
ghế dựa tay lần chuỗi, hai người
con gái niệm Phật chung với bà. Không tham
dự khóa tu niệm Phật được, ba
mẹ con niệm ngay tại nhà, cũng
thật tinh tấn thanh tịnh.
Năm giờ sáng ngày 31-12, chỉ c̣n bốn
tiếng đồng hồ nữa là măn khóa
niệm Phật, bà vẫn khỏe, hai người
con hỏI bà có muốn đến tham dự
lễ hồi hướng măn khóa. Ban đầu
bà nói đi, nhưng rồi sau, bà bảo để
Hương ở lại, Trân nên đi hồi
hướng.
Xong buổi lễ hồi hướng, cả
ban niệm Phật cùng đi đến thăm
và trợ niệm cho bà. Biết bà có lẽ không
c̣n bao lâu sẽ đi, tất cả đồng
thanh chí niệm, bà cũng nhép miệng
niệm theo (lúc này bà không có lần chuỗi
nữa.) Đột nhiên mọi người
thấy bà chấp hai tay lại, mặt mày sáng
ra có vẻ thành khẩn lắm. Thấy
thế mọi người đồng đứng
dậy trang nghiêm niệm càng tha thiết hơn.
Được một hồi bà để tay
xuống và như nằm dưỡng tỉnh.
Trong lúc bà có hành động lạ như
vậy, cô Hương con gái bà nh́n thấy khuôn
mặt Mẹ sáng hực ra như có ánh sáng vàng
chiếu vào vậy. Sau này hỏi ra có thêm
một người trong Ban Hộ Niệm cũng
thấy như cô. Tất cả người c̣n
lại th́ thấy mặt bà thật tươi
tỉnh. Khoảng thời điểm này
mọi người đều xác nhận không
có ánh sáng mặt trời chiếu vào pḥng.
Tối hôm đó số người niệm
Phật cũng trở lại niệm cho bà. Gia
đ́nh cũng có gọi bác sĩ
Mạch-Ảnh-Lang tới thăm, bác sĩ
hỏi bà mệt không, bà gật đầu, nhưng
hỏi đau th́ bà lắc đầu.
Hôm sau, ngày 1-1-2000, các người con vẫn
niệm Phật cho bà, và Ban Hộ Niệm
vẫn đến trợ lực. Trong Ban Hộ
Niệm có một vị đứng mang h́nh
Phật đưa lên hơi cao, bà liền ra
dấu hạ xuống thấp hơn. Có người
cảm thấy bà có vẻ sắp đi v́
mệt nhiều, nên xin phép bà hạ ghế
dựa thấp xuống để bà nằm; bà
không chịu vẫn muốn trong tư thế hơi
ngă người mà thôi. H́nh như bà muốn
giữ trang nghiêm trước giờ ra đi
theo Phật!
Niệm được một hồi, tự
nhiên hai mắt bà mở lớn ra và trông
thật sáng, bà lại nhóm người lên
muốn đứng dậy! H́nh như bà đă
thấy điều ǵ! Rồi từ từ
dịu người xuống, miệng vẫn
động môi niệm Phật, đôi mắt
cũng từ từ nhắm lại và bà ra
đi trong sự trang nghiêm thanh tịnh ḥa theo
tiếng niệm Phật không ngừng. Lúc
đó là 9 giờ 23 phút tối.
Có vài người tới trễ, vào lúc bà
sắp ra đi miệng c̣n động niệm.
Họ bước vào đúng lúc liền xá chào
bà, rồi quay sang bàn Phật cùng cất
tiếng niệm. Đến một hồi xoay
lại nh́n bà, họ cứ ngỡ bà ngủ,
nào ngờ người khác cho hay bà đă
đi ngay vừa lúc họ xá chào bà rồi
quay sang niệm Phật.
Gia đ́nh con cháu và Ban Hộ Niệm vẫn
tiếp tục niệm Phật thiết tha hơn.
Niệm đến gần nửa đêm, cô Trân
con gái bà cảm thấy, chưa bao giờ
chứng kiến buổi niệm Phật kỳ
diệu tuyệt hay như vậy, dù cô đă
tham dự nhiều khóa niệm Phật thật
trang nghiêm. Cảm kích như thế, cô bèn lui
ra t́m băng cassette thâu giữ âm thanh hiếm
qúy này. Cùng lúc đó cô Hương lại
nghe như có tiếng nhạc đâu đó ḥa
theo tiếng niệm Phật, lại thấy cô
Trân đang loay hoay với máy cassette, cô tưởng
em ḿnh để băng niệm Phật có
đệm nhạc vào máy. Trong tâm cô vừa
ngạc nhiên, vừa khó chịu, v́ sao đang
niệm Phật tha thiết như vậy
lại để băng nhạc vào làm ǵ!
Sau này hỏi ra mới rơ, cô Hương đă
nghe được âm thanh nhạc điệu
lạ lung và cô là ngưới duy nhất nghe
được. Điều lạ nữa, dù
niệm Phật lâu như vậy, mà mọi người
không cảm thấy chút ǵ là mệt, h́nh như
c̣n khỏe người ra. Họ c̣n nói, như
có gió mát thổi vào pḥng khiến ai nấy
thật sảng khoái mát mẻ (thời
tiết lúc này đang là mùa nóng ở Úc.)
Ban Hộ Niệm thay phiên niệm Phật đến
gần tám tiếng đồng hồ, rồi
hồi hướng ra về. Riêng trong gia đ́nh
vẫn tiếp tục niệm cho đến sáng
hẳn ngày hôm sau. Tính ra cũng gần mười
hai giờ niệm Phật, và nhục thân bà
vẫn được giữ yên trong tư
thế hơi ngă người vào ghế.
Sau đó Bác sĩ Lang đến xét nghiệm
kư giấy lần cuối, bấy giờ cô Hương
và Trân cùng một người cháu và một
vị Phật tử trong Ban Hộ Niệm
mới di chuyển thân bà để lau tắm
chuẩn bị việc tang sự. Lạ thay toàn
than bà vẫn mềm mại như người
sống! Cô Hương và Trân thật sững
sốt việc này, liền nghĩ - Vậy là
Mẹ đă văng sanh rồi mới có việc
lạ, nhưng nếu đầu Mẹ mà c̣n
ấm nóng th́ mới thật đúng. Thế là
họ thật vui mừng biết bao, khi chính
tay cảm giác được hơi ấm trên
đầu bà vẫn c̣n lưu lại hơi
ấm trên đầu bà vẫn c̣n lưu
lại dù đă chết sau mười hai
tiếng (12) đồng hồ.
Việc vui mừng như thế đến
nỗi khiến nhân viên nhà quàn phải
ngạc nhiên. Họ hỏi, sao nhà có ngựi
chết lại vui được như vậy!
Cô Hương và Trân th́ thầm nhỏ
với Mẹ: “Chúng con hẹn, sẽ gặp
lại Mẹ ở Tây Phương
Cực-Lạc!”
Bà Tô-Vân-Liên đă thật sự văng sanh không
c̣n nghi ngờ ǵ cả. Những điều
tỉnh táo lạ lùng, đă cho thấy
dấu hiệu của một người
về cơi Phật có chuẩn bị và vui
vẻ hân hoan. Theo lời cô Trân kể, lúc bà
đă mang than bịnh, các con có nhắc vui
với bà, là hồi Mẹ ở Trung Hoa
khổ, di dân qua được Việt Nam sướng
được một chút, lại di dân qua Đài
Loan sướng hơn chút nữa, rồi qua
đến Úc th́ sướng hơn nữa! Bây
giờ Mẹ không biết sẽ di dân ở
đâu! Thôi th́ Mẹ di dân lên đất
Phật chắc là sướng nhất rồi!
Bà cười và nói đúng rồi lần này
phải di dân lên Cực Lạc! Bà c̣n nói
đùa, bà có đi rồi th́ báo cho mọi người
ở Việt Nam biết là bà chỉ đi di dân
thôi chứ không có chết.
Các con nhắc lại cho bà nghe câu chuyện
một người mất ở Đài Loan,
vị đó biết là nếu mất ngày thường,
sẽ khó có người đến thăm
viếng nên lựa ngày holiday mất - Vậy
Mẹ nên chọn ngày nghỉ mà đi cho
mọi người tiện đến trợ
niệm và thăm viếng th́ tốt lắm!
Qủa thật bà ra đi ngày 1-1-2000 đúng vào
tháng nghỉ lễ cuối năm, nên tất
cả gia đ́nh thân hữu đều đến
tiễn bà.
Sự ra đi nhẹ nhàng mầu nhiệm như
thế khiến các con nghĩ rằng, chắc
chắn Mẹ sẽ để lại cái ǵ
đó làm vật kỷ niệm cho con cháu.
Họ mạnh dạn thưa với nhân viên nhà
quàn, xin nán lại việc nghiền nát xương
cốt sau khi hỏa thiêu, để được
t́m thấy vật để lại của
Mẹ. Khi được xem cốt có các màu
lạ lùng, thế là họ biết đây là
Xá-Lợi, và là vật làm tin nhắn với các
con bà đă được về nước
Phật.
Đó là câu chuyện được kể
lại do hai cô Hương, Trân con ruột
của bà hiện ở vùng Yagoona và Regent Park,
và chúng tôi chỉ lược thuật một
cách đơn giản đúng theo lời
kể, tuy nhiên c̣n rất nhiều chi tiết,
tiên triệu thoại ứng mầu nhiệm khó
thể kể ra. Hơn nữa chuyện đă
qúa rơ ràng không cần phải chi tiết chi
lắm, v́ trước mắt chúng tôi là
những Xá-Lợi của bà được
đựng trong những tháp khiếng nhỏ
trong suốt để người ta có thể
trông thấy được. Dù rơ như
vậy, chúng tôi vẫn xin phép được
mở nắp xem để ghi nhận sự
thật hơn. Đúng thế, màu sắc lạ lùng,
xương người có thể đổi màu
một cách khó hiểu! Có những lơi xương
kết thành tàn ong trắng bạch thật
đẹp! Màu rơ nhất là màu vàng, kế là
màu xanh đậm nước biển. Đặc
biệt c̣n hai cái răng, màu răng lại không
bị ngà đục như răng chết, mà
biến thành màu trắng đục như
đá sỏi. Hiện một răng để
thờ ở nhà và một để ở chùa
Nan-Tiên (Wollogong-NSW).
Sau khi nghe kể và nh́n tận mắt Xá-Lợi
của bà, chúng tôi chợt nhớ lại
tức khắc h́nh ảnh Xá-Lợi của các
vị văng sanh trước trong quyển sách này
(hiện sách đây là phần tái bản
tại Úc) đă làm cho chúng tôi phải vui
mừng một sự thật vi diệu như
vậy! Một sự thật mà bấy lâu người
ta rất dè dặt tin nhận là thật hay
giả có người văng sanh!
Nhân đây chúng tôi xin phát ư tŕnh bày một vài
điểm cần ghi nhận mà người tu
chúng ta đang theo đuổi pháp môn niệm
Phật. Chúng ta tu Phật chỉ mong sao thoát
khỏi luân hồi, rồi sẽ quay lại
sống trong luân hồi mà tự ḿnh không c̣n
bị luân hồi để độ chúng sanh.
Sự thoát khỏi luân hồi đó nghĩa là
chứng đạo, liễu đạo, nhưng
việc chứng đạo, đắc qủa
không phải là chuyện thường t́nh có
thể bàn thảo, suy luận được;
cũng như ăn uống nóng lạnh ra sao,
nhận biết chỉ có chánh đương
sự, nếu có người thứ ba biết
được th́ đó phải là chư
Phật, chư Bồ Tát. Cho nên lưu lại
Xá-Lợi là một phương tiện
nhiệm mầu để gây tín tâm cho hàng
hậu học noi theo, chứ không phải
hễ người nào có Xá-Lợi, người
ấy mới thật văng sanh hay chứng đạo!
Ngài Đại Thánh Mục Kiền Liên ra đi vào
cơi Vô Sanh không phải tự tại như các
vị chứng đạo khác, Ngài ra đi
bằng sự trả nghiệp vô cùng đau
đớn, thân thể dập nhừ không c̣n
nguyên vẹn. Tuy vậy với Ngài vẫn an
lạc tự tại ngay giờ phút đó.
Việc này chỉ có Đức Thế-Tôn
thấy rơ sự an lạc của Ngài. Việc
nữa, giả như một cư sĩ tín tâm
ở Tây Tạng thực hành pháp môn niệm
Phật cầu văng sanh, khi chết cũng
phải theo truyền thống “điểu táng”
(giải quyết xát chết bằng cách
xẻ thịt cho chim ăn) th́ làm sao hiện báo
Xá-Lợi! Nhưng vị hành giả niệm
Phật này vẫn văng sanh về đất
Phật, và việc bỏ xác kia với h́nh
thức nào cũng là pháp hữu vi có sanh
tất có diệt.
Như thế chúng ta niệm Phật phải
cầu cho được giải thoát, thành
đạo cứu độ chúng sanh, và
việc giải thoát đó được
thuận duyên nhất là cầu sanh về đất
Phật A-Di-Đà để hoàn tất sở
nguyện.
Thật sự giải thoát ở ngay đời
này chỉ là những giải thoát thô mà
phần vi tế của phiền năo vẫn c̣n
luôn bị trói buộc. Nói vậy chúng ta
vẫn phải trăi qua từng bước căn
bản; trước hết giải thoát theo
những ǵ cơ bản, tức phải tu hành
giới luật theo sự lănh thọ của
mỗi người (cư sĩ và tu sĩ)
rồi th́ mới mong t́m được nơi
giải thoát phiền năo vi tế.
Niệm Phật chỉ mong cầu văng sanh
về đất Phật rồi lại độ
chúng sanh là đủ, chớ không nên mong tưởng
dính mắc h́nh ảnh sự việc nào đó,
e rằng tâm tư không vững sẽ nghi
ngờ pháp môn hiếm qúy này.
Điều nữa cũng xin thành thật chia
xẻ với tất cả, Pháp môn niệm
Phật cầu văng sanh có thể nói là con
thuyền to lớn vững mạnh nhất, mà
không một con thuyền nào so sánh được.
V́ thuyền này có thể đưa người
qua bờ giải thoát một cách dễ dàng,
lại chẳng cần đ̣i hỏi người
đứng chờ thuyền đủ thứ
điều kiện chi. Người được
lên thuyền qua sông giải thoát chỉ
cần một điều kiện duy nhất là
phát tâm bồ đề nhất tâm niệm
Phật cầu văng sanh. Những người như
vậy không có phân biệt, có học hay không
học, giỏi dở, xấu đẹp,
trẻ già ra sao, chỉ cần phát tâm tha
thiết là được.
Điều muốn nói rơ hơn ở đây là
Đới Nghiệp Văng Sanh, nghĩa là chưa
giải tỏa được nghiệp qủa
của ḿnh, ḿnh vẫn đi vào thế
giới Phật. Vậy th́ rơ ràng có một
Phật lực nhiếp đưa, nếu không
làm sao có thể tự lực đi về
thế giới Phật. Hơn nữa, có người
chỉ mới vào đạo ít năm,
nghiệp tịnh chưa thuần mà c̣n mang
đầy tập khí nghiệp nhân vẫn
được văng sanh như các chuyện văng
sanh trong quyển sách này. Qúy Phật tử
mới hiểu đạo Phật như cụ
bà Tô-Vân-Liên mà chúng tôi vừa kể. Qúy
vị tu sĩ có Thầy Sa Di Thích-Minh-Đạt,
chưa thọ Tỳ Kheo, năm tu chưa đến
vài năm nhưng ra đi để lại
đủ chứng tích mầu nhiệm,
rằng pháp Phật không không phân biệt, không
h́nh tướng, không giả danh, không kẹt
chấp… chỉ nhất tâm chuyên tu chánh
niệm th́ diệu pháp sẽ ḥa vào tất
cả. Như thế mới thấy, Phật
lực qủa nhiệm mầu.
Xét ra như thế, vậy lực nào có
thể đưa họ vào thế giới hoàn
toàn thanh tịnh? Chỉ có Phật lực mà
thôi, ngoài Phật lực ra, tất cả chúng
sanh đều theo nghiệp lực trả vay
vay trả. Chúng ta hiện đang có mặt
ở cơi Ta Bà là do nghiệp lực; và rồi
tương lai vượt lên cảnh trời
hay vào đọa xứ cũng tùy vào thiện
nghiệp hay ác nghiệp mà đi. Các vị
chứng đạo, nhưng chưa phải là
hạng đại Bồ Tát, tuy ác nghiệp không
c̣n, tự tại đi với thiện
nghiệp, nhưng thiện nghiệp mà các
vị mang đi nếu không cầu Phật
lực gia bị cũng dễ tiêu hao, lư do
trong một đời không thể nào tịnh
sạch hết những ác nghiệp từ vô
thỉ kiếp. Do đó chưa đạt
được qủa chánh vị Chánh Đẳng
Chánh Giác, tất cả cần nương vào
Phật lực, vậy mới dễ an định
hơn.
Vậy muốn được Phật lực
tiếp dẫn, hành giả niệm Phật
tất phải có nguyện lực mong cầu hướng
về Phật lực, như thế nghiệp
lực qúa khứ không c̣n sức mạnh kéo lôi
mà xuôi về ánh sáng thanh tịnh giải thoát.
Nguyện lực không mạnh chẳng thể
chiêu cảm được Phật lực, cho
nên sẽ không được tha lực
nếu không có tự lực chí nguyện
cầu được văng sanh. Vậy ra tu Pháp
môn niệm Phật không hoàn toàn do nhờ tha
lực, mà phải dụng công tha thiết chí
niệm không ngừng.
Mong rằng tất cả chúng ta chí tâm hướng
về chư Phật, đồng nguyện
mọi người sớm quay về con
đường vắn tắt mà an toàn này.
Nam-Mô-Bổn-Sư-Thích-Ca-Mâu-Ni-Phật
Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật
Pháp-Bảo-Tự ngày 20-3-2001
Thích-Phổ-Luân
Lời thêm của Tịnh Hải
Cụ Bà Diệu Âm Tô-Vân-Liên tu theo đạo
Khổng, từ 1991 bà qua Úc, đến 1997 do
duyên lành bà được nghe Phật Pháp do băng
giảng bằng tiếng Trung Hoa, rồi bà
lại được gặp Pháp Sư
Tịnh-Không. Hẳn chúng ta c̣n nhớ, Pháp Sư
Tịnh-Không là người Đài Loan, đi
hoằng Pháp độ sanh ở nhiều nước
trên thế giới. Tại Dallas, Hoa Kỳ, Pháp
Sư lập ra Tịnh-Trung Học Viện.
Tại đây một người Việt
gốc Hoa khác tên Huỳnh-Ngọc-Tuyết
được Pháp Sư thâu làm đệ
tử đặt pháp danh cũng là Diệu-Âm.
Giống như cụ bà Diệu-Âm Tô-Vân-Liên,
bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết cũng
bị ung thư.
Có điều đáng nói, bất cứ nơi
nào có mặt Pháp Sư Tịnh-Không th́ nơi
đó có các khóa dạy tu Tịnh-Độ
rất nghiêm chỉnh và một Ban-Hộ-Niệm,
gọi là phái đoàn, được huấn
luyện phương cách hộ niệm
thật đặc biệt và có kỷ cương.
Điều nào hay của người ta nên nghiên
cứu học hỏi và phát triển trong
giới Phật tử Việt Nam.
Muốn giúp người tu niệm Phật văng
sanh không ǵ tốt hơn là mỗi chùa nên có
một Ban-Hộ-Niệm thật tích cực và
mọi Phật tử nên tham gia với tinh
thần hăng hái. Có những trường
hợp, một Phật tử đáng lẽ không
được văng sanh v́ nghiệp qúa khứ
qúa nặng, nhưng nhờ có Phật tử
trong Ban-Hộ-Niệm mà người chết
lại được đới nghiệp văng
sanh v́ theo Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật (trang
36), qúy vị trong Ban-Hộ-Niệm từ chư
Tăng, Ni đến bạn đồng tu,
đồng học đều có thể là
Thiện-Tri-Thức. Một người vào lúc
lâm chung được bất cứ vị nào
trong Ban-Hộ-Niệm khai thị, nhắc
nhở niệm Phật và hướng dẫn
niệm Phật, người chết được
văng sanh th́ vị Thiện-Tri-Thức và người
hộ niệm được muôn vàn công đức.
Trở lại cụ Diệu-Âm Tô-Vân-Liên.
Từ khi biết pháp tu niệm Phật, bà cùng
bạn đạo tổ chức tu niệm
Phật tại nhà và niệm Phật theo băng
“chíp” của Đài Loan và Hồng Kông. Như
chúng tôi đă viết ở lần ấn
tống trước, chúng tôi muốn tổ
chức sản xuất ra loại băng
“chip” niệm Phật bằng tiếng
Việt. Nhưng xét lại, việc này cần
phải làm lâu dài, phải có tài chánh, mà chúng
tôi th́ đă lớn tuổi lại bịnh
hoạn, e ngại nửa chừng bỏ dở
mọi việc nên đành bỏ qua. Vậy
mong rằng những vị nào giàu đạo-tâm
và giàu hằng-sản đứng ra sản
xuất rồi chia lại với giá vốn cho
mọi Phật tử. Nếu hiểu được
tầm quan trọng của máy “chip” th́ đây
là một công đức rất lớn.
Nhờ sự hiện diện của máy
“chip” mà cụ Diệu-Âm niệm Phật ngày
càng thêm tinh tấn và ngay khi biết ḿnh
bị ung thư, cụ càng niệm Phật ráo
riết hơn v́ biết chắc rằng ḿnh
sẽ chết vào một ngày không xa, nếu
niệm Phật nhứt tâm sẽ được
văng sanh về cơi Phật.
Nhờ niệm Phật mà cụ không thấy
đau đớn do bịnh hoạn hành xác.
Lại nhờ vào niệm Phật tinh chuyên mà
cụ Diệu-Âm Tô-Vân-Liên chứng nhập
được Sơ-Phần-Pháp-Thân, mà
nhiều lần trước chúng tôi đă
dẫn chứng trong Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật. Cũng nhờ niệm Phật mà
thâm nhập được niệm Phật Tam
Muội. Tam Muội là một trong những
đại định. Nhờ niệm Phật
và sống trong những giờ phút an định,
sắc thân phàm phu gồm xương, thịt,
răng, óc, năo, tim kết thành những
chất cứng rắn.
Đó là những viên Xá-Lợi mà sau lễ
hỏa tang, cụ bà Diệu-Âm Tô-Vân-Liên có
được (rất tiếc là khi chụp h́nh
xá lợi của cụ bà không được
sử dụng với máy chụp h́nh tối tân
hơn, không được rọi lớn nên
không thấy rơ các màu sắc đẹp.)
Tại sao trên đây chúng tôi dám nói khi chuyên
tâm niệm Phật cụ bà Diệu-Âm thâm
nhập được chánh định? V́
trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nơi trang
80, Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói: “Khi xưng
niệm Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, hành giả (như
cụ bà Diệu-Âm) dần dần thành
tựu chánh định Như Lai…”
Chánh định cũng là Tam Muội. Những
lúc cụ bà Diệu-Âm cũng như bao nhiêu
vị khác trong sách này an định niệm
Phật, theo Kinh, đó là danh hiệu Phật
đang tuôn chảy liên miên bất tận thành
một khối lưu-ly sáng rực. (xem trang 81)
Nhờ niệm Phật mà cụ Diệu-Âm không
c̣n phiền năo, sống vui vẽ với con cháu.
Trước ba tuần ĺa cơi này về với
Phật, cụ vui vẻ đến trường
dự lễ tốt nghiệp khóa tiếng Hoa
của đứa cháu trai, không ai biết
cụ đang bị ung thư.
Cho nên Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói:
“Nếu tận trừ phiền năo th́ thân tâm
vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức
đồng với chư Phật không hai không
khác.” (xem trang 82)
Nếu xem kỹ Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật và suy gẫm tận tường
mới thấy rơ chỗ chứng đắc văng
sanh của cụ bà Diệu-Âm Tô-Vân-Liên và
những vị khác. Sự đắc qủa
của cụ bà Diệu-Âm Tô-Vân-Liên chứng
minh qua chuyện kể của Thầy Phổ-Huân
như sau:
Khi Ban Hộ Niệm đến thăm và
trợ niệm cho bà. Đột nhiên mọi người
thấy bà chấp hai tay lại, mặt mày sáng
ra có vẻ thành khẩn lắm. Thấy
thế mọi người đồng đứng
dậy trang nghiêm niệm càng tha thiết hơn.
Được một hồi bà để tay
xuống và như nằm dưỡng tỉnh.
Trong lúc bà có hành động lạ như
vậy, cô Hương con gái bà nh́n thấy khuôn
mặt Mẹ sáng hực ra như có ánh sáng vàng
chiếu vào vậy. Sau này hỏi ra có thêm
một người trong Ban Hộ Niệm cũng
thấy như cô. Tất cả người c̣n
lại th́ thấy mặt bà thật tươi
tỉnh. Khoảng thời điểm này
mọi người đều xác nhận không
có ánh sáng mặt trời chiếu vào pḥng.
Trường hợp của bà Diệu-Âm
Huỳnh-Ngọc-Tuyết ở Dallas cũng có
ánh sáng màu vàng lúc sắp mất. Đây là
một loại ánh sáng không gây ra cái bong
của người và vật.
Hôm sau, ngày 1-1-2000, các người con vẫn
niệm Phật cho bà, niệm được
một hồi, tự nhiên hai mắt bà mở
lớn ra và trông thật sáng, bà lại nhóm người
lên muốn đứng dậy! H́nh như bà
đă thấy điều ǵ! Rồi từ
từ dịu người xuống, miệng
vẫn động môi niệm Phật, đôi
mắt cũng từ từ nhắm lại và bà
ra đi trong sự trang nghiêm thanh tịnh ḥa
theo tiếng niệm Phật không ngừng
Cụ bà Diệu-Âm Tô-Vân-Liên thấy ǵ mà
muốn đứng dậy và sau đó bà ra
đi vĩnh viễn? Thầy Phổ-Huân
tế nhị không nói rơ điều này. Nhưng
trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói: “Lúc lâm
chung cố giữ sao cho được mười
niệm tiếp nối liền nhau, lập
tức vào Phổ-Đẳng Tam-Muội của
đức Phật A-Di-Đà, được
Phật tiếp dẫn về Tịnh-Độ Tây-Phương.”
(xem trang 18)
Như vậy liên tiếp trong 2 ngày được
trợ niệm và chính cụ bà Diệu-Âm Tô-Vân-Liên
đă giữ được nhiều lần
của mười niệm nối liền nhau;
nên cuối cùng cụ thấy… vụt
muốn đứng lên, và kế đó cụ
về cơi Phật. Cụ Diệu-Âm đă
thấy ǵ? Có phải cụ thấy Phật và
Thánh Chúng đến rước?
Trường hợp của cụ giống như
trường hợp của cư sĩ
Thiện-Bửu được kể trong sách
này: “Giữa trưa 24-10-2000, lúc cả nhà
đang hộ niệm, Thiện-Bửu ngừng
niệm Phật, ngước mắt nh́n lên như
thấy một điều ǵ. Rồi chẳng
bao lâu, Thiện-Bửu ra đi vĩnh viễn.”
Những vị tu niệm Phật chứng đắc
văng sanh thường có những điều
huyền diệu đôi khi giống nhau và đôi
khi khác nhau. Như cô con gái tên Hương, con
của cụ Tô-Vân-Liên, lúc gần nửa
đêm sau khi cụ mất thoáng nghe một
loại âm nhạc lạ lùng khiến tâm
thần cô sảng khoái và chỉ có một ḿnh
cô nghe. C̣n các cô con gái khác của bà
Huỳnh-Ngọc-Tuyết th́ ngửi thấy
một mùi hương thơm và nhiều người
ngửi thấy được, nhưng mỗi
người ngửi thấy một mùi khác nhau.
C̣n cô con gái anh Đồng-Hưng ở Virginia tên
Thu-Vân ngửi thấy một mùi hương lúc
anh vừa tắt thở.
Ôi! Thật là huyền diệu!
Trích
trong sách “Những Chuyện Văng Sanh Lưu Xá
Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.
|
|
|