NAM MÔ A DI ĐÀ PHÂT

Nam Mô A Di Đà Phật - Niệm Di Đà Không Xao Lăng - Chắc Chắn Được Văng Sanh


Trang Chủ

Niệm Phật Có 10 Điều Lợi Ích Lớn

Những Chuyện Niệm Phật Văng Sanh Lưu Xá Lợi

Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung

Các Kinh, Sách Phật Giáo

Thuyết Pháp - Video

Thuyết Pháp - Audio

Các Trang Web về Phật Giáo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Để thỉnh các dĩa Video và Audio miễn phí - xin gởi email về

[email protected]

 

Nam Mô A Di Đà Phật

 

 

Tứ Hoằng Thệ Nguyện

Chúng Sanh Vô Biên, Thệ Nguyện Độ. (1 lạy)

Phiền Năo Vô Tận, Thệ Nguyện Đoạn. (1 lạy)

Pháp Môn Vô Lượng, Thệ Nguyện Học. (1 lạy)

Phật Đạo Vô Thượng, Thệ Nguyện Thành. (1 lạy)

XÁ LỢI của SA DI THÍCH-MINH-ĐẠT
NHÂM-NGỌC-HỰU

Thị tịch rạng ngày 10-12-1997

Từ Ân, có nghĩa là cái “Ân” của long “Từ”, là ngôi chùa “đơn côi, bất hạnh” ở vùng Ottawa, Canada. Chùa đă có, nhưng không đủ phước duyên để nghinh tiếp một vị Sư trụ tŕ. Chùa cần có người trông lo Kinh kệ và làm lễ cầu siêu cho những vong linh qúa cố của chúng Phật tử.
Thu đi rồi đông tới, Người ta nói vắng lạnh như chùa Bà Đanh. Chùa Từ-Ân tuy lạnh vào mùa đông, nhưng không vắng lạnh như chùa Bà Đanh, v́ năm ấy 1997, Thầy Minh-Đạt chấp nhận đáp ứng sự mong chờ của chúng Phật tử Ottawa.
Thầy Thích-Minh-Đạt chỉ là Sa-Di, chưa thọ giới Tỳ Kheo, theo giới luật nhà Phật th́ phải gọi là “Chú”, chú Sa-Di Minh-Đạt. Nhưng Phật tử chùa Từ-Ân biết rằng các pháp chỉ là giả danh. Tỳ Kheo, Đại Đức, Thượng Tọa hay Sa Di, tất cả chỉ là danh tự. Danh tự chỉ là tên đặt ra để gọi, nên là giả danh. Kinh Đại-Bát-Nhă đă dạy như vậy. Điều quan trọng là vị trụ tŕ phải có tâm tu và thực tâm hoàn thành vai tṛ của người xuất gia: lănh đạo tinh thần của Từ-Ân Tự, giảng dạy Kinh điển.
Thầy Thích-Minh-Đạt có đủ điều kiện này. Thầy đến chùa Từ-Ân như mang hơi nóng đến sưởi ấm ḷng Phật tử vào mùa đông Canada lạnh lẽo.
Thầy Thích Minh-Đạt đến chùa Từ-Ân với ước mong hướng dẫn cho Phật tử: “Phước Huệ song tu và Tịnh nguyện cầu văng sanh Cực-Lạc.”
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, tức Pháp tu Niệm Phật thành Phật, Đức Phật dạy: “Tất cà các loài chúng sanh chết ở nơi đây, rồi sanh sang nơi kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng chung th́ các loại nghiệp lành dữ trong một đời hiện ra rơ ràng. Chúng sanh nào sống thuần bằng tư tưởng , th́ bay lên hóa sanh, nơi các cơi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gôm cả Phước Huệ và Tịnh Nguyện th́ tự nhiên tâm trí khai mở thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của ḿnh mà sanh về Tịnh-Độ” (trang15)
Tuy là Sa-Di, nhưng là một cựu sĩ quan Quân đội VNCH cấp bực Trung Tá, Ngài có đủ trí tuệ căn bản để tự học Kinh điển, và nhờ học Thiền nhiều năm nên có được định căn bản. Chúng tôi gọi là Thầy Thích-Minh-Đạt bằng danh xưng tôn vinh “Ngài”, v́ Thầy đă chứng đạo xứng đánh được gọi như vậy.
Quan điểm của chúng tôi tương đồng với quí vị Phật tử ở Ottawa. Chức vị không quan trọng, điều cần thiết là người đă xuất gia có chịu thực sự tu hành hay không mà thôi Đức Phật nói trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật: (trang 17)
“Bất cứ Thiện-Nam-Tử, Thiện-Nữ-Nhân nào đủ ḷng tin th́ chỉ cần chuyên nhứt xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, th́ hiện tiền chiêu cảm được y báo, và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cơi Cực-Lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho đươọc mười niệm tiếp nối nhau, lập tức vào Phổ-Đẳng-Tam-Muội của Đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh Độ Tây Phương. Vĩnh viễn xa ĺa các đường ác, không c̣n luân hồi sinh tử. Đó gọi là quả vị Bất-Thối-Chuyển. Từ ấy nhẫn về sau, vượt qua Thập Địa, chứng Vô-Thượng-Giác.
Trong bài Tưởng Niệm Thầy Minh-Đạt, Phật tử Quảng Trí thuật lại khóa lễ đầu tiên khi Thầy Minh-Đạt được Ban Trị Sự giới thiệu Thầy với Phật tử, Thầy nói:
“Tôi nguyên là người lính trong quân đội VNCH, câp bậc sau cùng là Trung Tá trong ngành quân nhu. Biến cố 30-40-1975, tôi di tản sang mỹ sống đời tạm dung hơn 20 năm, giờ đây các con tôi đă trưởng thành, tôi xuất gia nương cửa Phật để tu hành đă hơn 1 năm qua. Chúng ta, hôm nay tụ hội về đây đều là anh em cùng một cha. Đó là đấng Từ Phụ Thích-Ca-Mâu-Ni-Phật. Xin quí vị hăy tinh tấn tu học, hành tŕ giáo pháp của chư Phật để cầu văng sanh, đạt giải thoát ngay trong hiện kiếp này. Chúng ta không chờ một sự cứu rỗi nào từ bên ngoài. Chính chúng ta quyết định đời sống tâm linh của chúng ta.”
Với những lời ngắn, nhưng đủ chứng minh tinh thần quyết tâm tu, đạt giải thoát ngay trong hiện kiếp. Và trong một đoạn khác của bài Tưởng Niệm, viết:
Theo lời bác Từ Trang, người thân cận nhứt với Thầy trong thời gian lưu trú tại chùa Từ-Ân: mỗi ngày, từ khuya, Thầy đă thức dậy lễ Phật, tụng Thần Chú Lăng Nghiêm, tọa Thiền, thiền hành. Trong ngày thường chăm chú vào việc học hỏi Kinh điển. Hầu như hàng ngày “trú dạ lục thời” Thầy không giải đăi thiếu sót tụng niệm.
Thầy Thích-Minh-Đạt đă tự tu, tự độ như thế, nhưng vẫn không kém tự tha. Trong hơn hai tháng lưu trú tại chùa Từ-Ân, Thầy đă tụng Kinh, niệmPhật và cầu siêu đột ít nhứt 3 vị tại Ottawa, 1 tại Montreal. Phật tử tại Ottawa kháo nhau: “Nếu cần một vị tăng có giới đức thanh tịnh th́ mời Thầy Thích-Minh-Đạt, c̣n nếu cần một vị Sư biết rập rềnh tang dẩu, tán tụng cho hay cái lỗ tai, múa may ấn quyết cho đẹp mắt th́ thầy không có mấy thứ đó.” Đặc biệt, Thầy không lấy tiền cúng dường của Phật tử.
Trong cơn bịnh hoạn nguy cấp, Thầy Minh-Đạt không từ chối việc hộ niệm cho người Phật tử sau cùng của Thầy là bà Bích-Hằng. Dù lúc ấy sức khỏe rất yếu mà Thầy không từ bỏ một khoá lễ nào. Lễ xong Thầy đi bác sĩ, ở pḥng mạch ra Thầy đi thẳng tới nhà quàn để kịp khóa lễ. Thầy lo độ cho người vừa chết, giúp cho hương linh được siêu thoát. Mỗi câu tụng là một cơn ho, nhưng Thầy lấy việc độ tha để trang nghiêm cho hạnh Bồ-Tát của Thầy. Thầy Minh-Đạt độ người nên Phật độ Thầy.
Sau lễ hỏa tang cho bà Bích-Hằng, Thầy phải vào ngay bịnh viện. Rồi từ bịnh viện về chùa, Thầy lại lên chánh điện chủ lễ tụng niệm ngay. Thầy đă viết trên tấm bảng con treo trong pḥng để tự nhắc nhở ḿnh.
“Phải tinh tấn hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả”
Đúng! Cái chết đến bất ngờ không thể nào mặc cả. Thầy đă tinh tấn lo hôm nay kẻo ngày mai không kịp. Thầy đă tự độ và độ tha không ngừng nghỉ, không ngại mệt mỏi.
Đêm rạng ngày 10-12-1997. Thầy đi về cơi Phật, đắc Vô Sanh Pháp nhẫn được qủa Bất-Thối-Chuyển theo như trong Kinh, Đức Phật nói. Cái chết của Thầy làm bất ngờ mọi người. Nhưng Thầy th́ ra đi an nhiên tự tại.
Phật tử Chánh-Tâm-Hải viết: Như thường lệ, sau khi ăn Thầy vào pḥng nằm nghỉ. Ông Triệu về, đạo hữu Như-Hoa đến lúc 7 giờ tối, cửa pḥng c̣n đóng, cô không dám gơ cửa, để Thầy nghĩ. Đến 12 giờ khuya, khi thức giấc thấy đèn c̣n sáng, bác Trang mở cửa vào. Than ôi! Thầy đă ngủ, hai mắt nhắm, hai tay chắp vào nhau để trên bụng trong tư thế thật an nhiên tự tại. Thầy đă măn nguyện!
Sa Di Thích-Minh-Đạt đến nhận chức trụ tŕ ngày 23-9-1997 và mất rạng sáng ngày 10-12-1997. Thời gian thật ngắn ngủi. Thầy thường nói: “chỉ tiếc là tôi chưa làm ǵ được cho chùa Từ-Ân.”
Phật tử chùa Từ-Ân đă trả lời câu nói của Thầy, được đăng trong Đặc San Đặc Biệt phát hành vào dịp Lễ Bách Nhật 15-3-1998 rằng: “Thầy đă để lại cho chùa Từ-Ân một bảo vật vô giá là những viên Xá-Lợi nhiều màu mà mọi người đang kính cẩn chiêm ngưỡng. Cũng từ đây, chùa Từ-Ân có cái phúc, bởi v́, sẽ là nơi được nhiều người biết, khi đến chiêm ngưỡng Xá-Lợi hay đến chiêm ngưỡng đức độ của Thầy và lấy đó để làm gương tu học.
Cũng với lời Thầy Minh-Đạt nói: “chỉ tiếc là tôi chưa làm ǵ được cho chùa Từ-Ân,” ĐạI Đức Thích-Đức-Viên viết “Đôi Hàng Thành Kính Cảm Niệm Nhân Dự Lễ 49 Ngày Qúa Văng của Thầy Thích-Minh-Đạt” như sau:
“Quăng đời xuất gia của Thầy Thích-Minh-Đạt mà tôi có duyên may được gần gũi khiến tôi liên tưởng tới chuyện “Thoát Ṿng Tục Lụy”, do Ḥa Thượng Thích-Quảng-Độ dịch, tả về vị Quốc Sư Ngọc-Lâm.
Khi c̣n trẻ được viên tể tướng mời vào dinh dự lễ đă bị cô hầu Thúy-Ngọc không cho vào, chỉ v́ Quốc Sư không có tướng Quốc Sư như cách nh́n của cô hầu…
Khi Quốc Sư về già, lọm khọm bên sân tại một ngôi chùa cổ hoang tàn. Ngài xin tá túc với tâm nguyện dùng hơi thở cuối cùng của ḿnh hiến dâng cho Phật pháp. Không ngờ vị Tri Khách lo sợ, t́m mọi cách khước từ: “Nếu Sư Phụ không may mệnh hệ, chúng tôi không lo nổi!”
Nhà Sư nói: “Tôi c̣n chiếc quạt và hai phong thư có thể bù đắp cho quí tự…”
Ai ngờ! Vài ngày sau, vị Quốc Sư viên tịch. Triều đ́nh cho cử hành lễ Quốc Táng, và cho xây dựng lại một ngôi chùa khang trang.
Bồ Tát Thích-Minh-Đạt đă để lại cho chùa Từ-Ân những viên Xá-Lợi giá trị. Thầy Đức-Viên nói: “Hy vọng những viên ngọc Xá-Lợi của Thầy là những tia sáng khai tâm cho hang tại gia lẫn xuất gia.” Bởi theo “thói thường” thiên hạ thường dung cảm quan và sự hiểu biết chật hẹp của ḿnh làm thước đo để đánh giá người khác. Tu hành… không phải để đếm tuổi hạ. Không ai ngờ vị sư già Sa Di, tướng cục mịch tu chưa đầy tuổi hạ mà trong nhục thân có chứa Xá-Lợi của bực Bồ-Tát.
Thầy Minh-Đạt đă dùng cái “Ân” của ḷng “Từ” để lại cho chùa Từ-Ân những ǵ đáng giá hơn mọi người tưởng.
Thật ra chẳng phải chỉ thuần do công tu của những ngày xuất gia mà Thầy Minh-Đạt được như vậy, mà do cái nhân thiện căn, thiện nghiệp của Thầy đă gieo trồng từ kiếp qúa khứ; kiếp này Thầy lại vun bón, tưới nước thêm, đủ duyên nên kết trái. Chúng ta không phải là bực Thánh nhơn nên không nh́n thấy căn lành ấy.
Bây giờ câu nói của Thầy Minh-Đạt trở thành lời vàng. Một Phật tử chùa Từ-Ân, ông Tuệ-Đạt Nguyễn-Bá-Triệu đă đem lời khuyên của Thầy Thích-Minh-Đạt dùng làm phương châm xử thế như sau: “Ai mắng chửi, nguyền rủa anh, anh đừng giận. Anh hăy thành tâm niệm Phật và tôn người ấy làm sư phụ v́ chính người ấy đă dạy anh một bài học nhẫn nhục.”
Thật sự, Thầy Minh-Đạt đạt được sự chứng ngộ nhờ vào bài học “nhẫn nhục”. Khởi đầu, Thầy đến một ngôi chùa ở bên Pháp xin xuất gia. Vị Ḥa Thượng chấp nhận đặt pháp danh là Minh-Trí. Nhưng sau đó một số tu sĩ lân cận Ḥa Thượng, chê Thầy tướng già, tướng cục mịch, không có giọng tụng kinh tốt, cản trở không để Thầy thọ giới Tỳ Kheo.
Thầy Minh-Trí lặng lẽ ra đi, t́m đến một vị Thiền Sư, nhưng vị này chỉ thu nhận với điều kiện, nếu có sự giới thiệu của Ḥa Thượng. Muốn tiếp tục tu và đạt thành chánh qủa, Thầy Minh-Trí phải học tu nhẫn nhục. Trong nhà Phật, những người gây chướng duyên cho người khác có khi được coi là chứng duyên Bồ-Tát.
Như Đề-Bà-Đạt-Đa luôn luôn phá hoại Phật Pháp, làm hại Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn thọ kư cho Đề-Bà-Đạt-Đa sẽ thành Phật. Nếu người tu hành được gặp may mắn luôn th́ làm sao học tập nhẫn nhục, tinh tấn để diệt cái ngă của ḿnh? Nếu những ngày gặp khó khăn, Thầy Minh-Trí thoái Bồ-Đề Tâm th́ làm sao có thành qủa của ngày hôm nay! Có lẽ trên đường tu Thầy Minh-Trí đă âm thầm cám ơn những chướng duyên Bồ-Tát kia. BởI vậy mọi việc chỉ nên nói tới đây.
Từ ngày ĺa Âu Châu, Pháp danh Minh-Trí được đổi là Minh-Đạt. Minh là quang minh, tức hào quang sáng chói; c̣n Đạt là chứng đắc qủa. Thường th́ danh hiệu cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp của một người, dù là sự nghiệp tu hành. Tất cả đều do nhơn và duyên, và cuối cùng là qủa.
Thầy Minh-Đạt tiền kiếp đă tu và hiện kiếp Thầy tên Nhâm-Ngọc-Hựu, từ hai mươi tuổi đă biết thương người. Nhơn thời kháng chiến chống Pháp, một người bạn bị Tây bắn chết không quần áo chôn, Hựu đă lột quần áo cho bạn. Lớn lên Hựu đi lính, làm sĩ quan quân nhu, nơi đơn vị mà bao sĩ quan quân nhu khác làm giàu c̣n Hựu th́ liêm khiết trong sạch, sẵn sang giúp đỡ cho binh sĩ trực thuộc và bạn nghèo. Lúc Sài G̣n sắp mất, Hựu cơng cha bị tê liệt chạy xuống tàu ra khơi theo làn song người lưu vong. Ở hải ngoại, nuôi nấng cho bảy đứa con trưởng thành, Hựu xuất gia để tự giải thoát. Có người xuất gia tu Thiền chủ trương không tụng kinh, không cầu siêu cầu an cho bá tánh; c̣n Hựu tức Thầy Minh-Đạt v́ bá tánh quên ḿnh, trong cơn bịnh hoạn không cần lo sự sống chết của chính bản thân ḿnh, mà lo đi hộ niệm cho người sắp lâm chung. Hành động đó là hành động của bực Bồ-Tát; đó là Bồ-Tát Hạnh vậy. Một bực tu như vậy, ắt là phải đắc qủa.
Thầy Minh-Đạt kiếp này đầy đủ tứ ân. Đi quân đội là đền ơn Đất Nước; khi cơng cha lưu vong là đền ơn Cha Mẹ; lúc xuất gia là đền ơn Tam Bảo; lo hộ niệm cứu khổ chúng sanh là đền ơn Đồng Bào. Làm quân nhu không tham lam; đi tu bị từ chối thọ giới Tỳ Kheo mà không giận là không sân; xuất gia để tự giải thoát là không si, lại thêm đầy đủ bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ.
Tóm lại Thầy Thích-Minh-Đạt có đầy đủ Thiền Tịnh Song Tu, đủ Tứ Ân và Sáu Ba-La-Mật, dứt được Tham-Sân-Si, cho nên dù tuổi hạ ít mà Thầy vẫn đạt đạo. Theo chúng tôi, sau khi lâm chung Thầy lưu lại Xá-Lợi là lẽ đương nhiên.
Trong “lời nói đầu” của tác phẩm “Từ Người Lên Phật” do chính tay Thầy Minh-Đạt viết, Thầy có trích lời khuyên dân Kalamas rằng: “Chúng ta hăy dùng trí tuệ như một ống thí nghiệm để soi nh́n nơi ta c̣n tham lam sân hận không? Khi tham lam sân hận không c̣n trong tâm ta th́ niềm an lạc hạnh phúc hiện bày.”
Chính Thầy Minh-Đạt không c̣n tham lam sân hận nên Thầy được an lạc hạnh phúc và tự tại khi ra đi vĩnh viễn. Đúng như lời Phật dạy. Đây chính là Niết-Bàn tại thế.
Bây giờ nói về Xá-Lợi của Thầy Thích-Minh-Đạt. Xin hăy đọc bài của ông Chánh-Tâm-Hải, một Phật tử của chùa Từ-Ân và cũng là người t́m thấy Xá-Lợi đầu tiên:
“Sau lễ Tỳ Trà, con và anh Nhâm-Trung-Quang, con trưởng nam của Thầy đến nơi hỏa tang lúc 12 giờ 10 để nhận tro mang về chùa. Nơi đây, bác sĩ Lư-Văn-Kim (rể của Thầy Minh-Đạt, đang ngụ tại New York) cho biết khi hỏa tang, nh́n vào ḷ thiêu thấy Thầy nàm trong tư thế giang hai tay ra hai bên, một hiện tượng rất lạ mà người phụ trách hỏa thiêu chưa bao giờ thấy. Trước khi tro cốt màu trắng của Thầy được đưa sang máy nghiền, chúng con và nhân viên phụ trách cẩn thận nhặt hết những mănh sắt vụn và than đen c̣n lẫn lộn trong đó. Con khấn thầm trong bụng mong Thầy cho con thấy sự mầu nhiệm. Con rất vui mừng là người đầu tiên phát hiện một viên ngọc quí màu xanh, sau đó anh Quang và Kim cũng phát hiện những miếng than xương h́nh thù khác nhau, to nhỏ đủ cỡ và đặc biệt nhiều màu khác nhau đủ cả xanh, tím, vàng, và hồng, đỏ. v.v… Hết đỗi vui mừng trước sự kiện lạ này, tin vui được báo về chùa, gia đ́nh và Phật tử rủ nhau xuống nơi hỏa tang để được chứng kiến hiện tượng lạ.”
Hiện nay tất cả những đốt than xương có h́nh thù đặc biệt và mang nhiều màu sắc và tro cốt của Thầy Minh-Đạt được thờ tại chùa Từ-Ân. Sau khi được Tăng đoàn xác nhận đó là Xá-Lợi của một vị tu hành đắc qủa. Ngoài Tăng đoàn Việt Nam (trong số này có cả Thượng Tọa Thích-Như-Điển ở Đức mà chúng tôi biết tiếng và tin tưởng ở đức hạnh) c̣n có quí sư Tây Tạng chiêm ngưỡng và công nhận Xá-Lợi của Thầy Minh-Đạt.

Trích trong sách “Những Chuyện Văng Sanh Lưu Xá Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.

 

                       

 
Hosted by www.Geocities.ws

1