Trang
Chủ
Niệm
Phật Có 10 Điều Lợi Ích Lớn
Những Chuyện Niệm Phật Văng Sanh Lưu Xá
Lợi
Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung
Các
Kinh, Sách Phật Giáo
Thuyết
Pháp - Video
Thuyết
Pháp - Audio
Các
Trang Web về Phật Giáo
Để thỉnh các dĩa Video và
Audio miễn phí - xin gởi email về
[email protected]
|
|
Nam Mô
A Di Đà Phật |
|
|
|
|
|
Tứ Hoằng Thệ Nguyện
Chúng Sanh Vô Biên, Thệ
Nguyện Độ. (1 lạy)
Phiền Năo Vô Tận,
Thệ Nguyện Đoạn. (1 lạy)
Pháp Môn Vô Lượng, Thệ
Nguyện Học. (1 lạy) Phật
Đạo Vô Thượng, Thệ Nguyện Thành. (1 lạy) |
|
|
|
|
|
XÁ
LỢI SƯ BÀ ĐÀM-LỰU
Thị tịch ngày 26-3-1999
Đàm-Lựu vừa là tên cũng là đạo
hiệu của Sư Bà. Sanh năm 1933 tại xă
Thanh-Oai, Hà-Đông Bắc Việt. Lúc hai tuổi
được Cha Mẹ đem tặng cho Sư
Cụ Đàm Soạn nuôi, v́ khó nuôi. Năm 16
tuổi Sư Bà thọ Sa-Di Ni Giới, 19
tuổi thọ Tỳ Kheo Ni Giới.
Năm 1952 theo Sư Cụ Đàm-Soạn vào Nam. Năm
1964 được đưa du học ở Tây
Đức. Năm 1970 làm Giám đốc Cô-Nhi-Viện
Lâm-Tỳ-Ni tại Sài G̣n.
Năm 1977 vượt biên tại Vũng Tàu. Năm
1980 lập chùa Đức Viên tại San José,
California.
Năm 1984, để sáng lập một ngôi chùa
mới rộng răi khang trang hơn, Sư Bà
bắt đầu gây qũy để xây
dựng ngôi Tam-Bảo, bằng cách hướng
dẫn ni chúng và Phật tử trong chùa làm
thức ăn chay bán vào các ngày rằm, mùng
một, cũng như chủ nhựt hằng
tuần và các ngày lễ lớn.
Để mọi người đều có
thể gieo trồng thiện căn với Tam-Bảo,
Sư Bà kêu gọi và phát động việc
thu nhặt lon nhôm, giấy báo, thùng cát-tông,…
Việc làm của Sư Bà được
sự ủng hộ nồng nhiệt hơn
từ đó.
Phạm vi bài này không chú trọng về
tiểu sừ mà muốn nói về Pháp tu
của Sư Bà. Theo Kỷ Yếu của Sư
Bà th́ Pháp mônhành tŕ của Sư Bà là Tŕ Chú
và Niệm Phật cầu văng sanh Tây Phương
Cực-Lạc mà không lúc nào Sư Bà xao lăng.
Trong tập Kỷ Yếu có đăng một
bài của nữ Phật tử tên
Nguyệt-Chiếu Đoàn-Thúy-Nga viết một lá
thư gởi về Thế-Giới
Cực-Lạc cho Sư Bà. Lời lẽ trong thơ
vô cùng trung thực và cảm động khi nói
về Pháp-môn của Sư Bà. Lời lẽ
rất cảm động chứa đựng t́nh
tṛ đối với Thầy tha thiết,
nồng ấm. Chúng tôi xin trích đăng vài
đoạn:
Kính bạch Thầy,
Lần đầu tiên con viết thư đến
Thầy, bởi Thầy giờ đây ở
rất xa, cơi Cực-Lạc, mà theo như Đức
Phật Bổn Sư dạy, nơi đấy
cách xa Ta Bà hơn 10 vạn ức Phật Độ,
và con giờ chưa thể đến thăm
Thầy được.
Thầy dặn, ngày Thầy đi không
được khóc, nhưng con vẫn không
cầm được nước mắt giàn
giụa v́ mủi long thương nhớ, dù
trong đầu con đang quán tưởng xem nhân
duyên nào kềp hợp để mối thương
cảm tràn đầy đến độ như
thế trong con…
Con nhớ năm cuối của Thầy, con
để ư thấy Thầy tụng Kinh thường
ngừng quăng như yếu hơi. Khi con quan tâm
hỏi, Thầy bảo chỉ cảm xoàng thôi.
Hôm con thấy tay Thầy run run con hơi
ngại, Thầy bảo già rồi nên thế.
Từ đấy con yên lặng để ư
đến Thầy, và thường xuyên thăm
hỏi mỗi lần con gặp Thầy. Con
hỏi nhiều qúa đến độ
Thầy phải bảo át đi là: “Con
chỉ lo hăo, có thân là phải yếu.”
Thầy giản dị, khiêm cung, nhu ḥa,
nhẫn nhục, nhưng cương quyết
thực hành chí nguyện độ sinh, luôn
lấy câu niệm Phật cầu sinh Tây Phương
nằm ḷng. Biết bao lần con vui mừng v́
cảm nhận: con được Thầy xem
con như người bạn sen đặc
biệt. Năm ngoái, khi Thầy Phước-Nhơn
ở Úc sang. Thầy ân cần giới
thiệu con với Thượng Tọa, con là
người con của Đức Phật-A-Di-Đà.
Thầy thường cởi mở, chân thành,
tha thiết, tán thán Pháp môn Niệm Phật, và
thân thiết tâm sự với con về Pháp môn
tu của Thầy: dốc ḷng tu tŕ câu hồng
danh A-Di-Đà và nguyện văng sanh Cực-Lạc.
Mỗi lần nói đến điều này
với con, mỗi lần kể những phương
tiện giúp người niệm Phật,
Thầy đều hoan hỷ, khuôn mặt
rạng rỡ v́ niềm tin nơi Từ
Phụ…
Khi chánh điện hoàn thành, Thầy tổ
chức lễ an-vị Tam Thánh Tây Phương,
thân kim sắc cao lớn, tướng hảo
thật trang nghiêm. Có lần chỉ có hai
thầy tṛ đứng ngắm Tam Thánh và
Thầy vô cùng hoan hỷ, niềm hoan hỷ
đặc biệt của những người
mơ ước khi bỏ thân này được
sinh tron nụ hoa sen nơi miền
Cực-Lạc.
Cá nhân chúng tôi thích và quí trọng Sư Bà
ở chỗ này. V́ Sư Bà y theo Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ
mà thờ tượng Tây Phương Tam Thánh.
Đa số người tu Tịnh Độ thời
nay thường niệm Phật nhiều mà ít
có ngườI sử dụng pháp quán tưởng,
v́ cho là khó tu. Thật ra th́ hành giả tu
Tịnh-Độ nên học biết về Tây Phương
Tam Thánh. Và bất cứ lúc nào cũng tưởng
nghĩ đến Tây Phương Tam Thánh th́
khi lâm chung có nhiều điều lợi. Chính
v́ lẽ đó chúng tôi đă ấn tống
ảnh Tây Phương Tam Thánh và thâu băng
Pháp Tu Quán Phật Tŕ Danh Tịnh Độ
Thiền.
Trong lá thư gởi Sư Bà của nữ
Phật tử Nguyệt-Chiếu có nhắc
đến sự hoan hỷ của Sư Bà
đối với Tam Thánh và danh hiệu
của hồng danh Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật - quyển
Kinh này do Sư Bà ấn tống đầu tiên
năm 1997 tại Hoa Kỳ - Đại Bồ Tát
Quán-Thế-Âm dạy: “Bất cứ chúng sanh
nào thậm thâm tin hiểu và hoan hỷ thọ
tŕ danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật hoặc
một ngày, hoặc bảy ngày, cho tới
nhiều lần của bảy ngày, th́ sẽ
đắc mười pháp quyết định
bất khả tư nghị.”
Nơi đây chúng tôi đăng trọn mười
pháp quyết định, v́ nó tối hệ
trọng đối với người tu
niệm Phật, như là:
1. Quyết định đời đời
thọ sanh trong ḍng giống Như Lai.
2. Quyết định vĩnh viễn an trú
trong cảnh giới vô lượng quang minh nghiêm
sức của chư Phật.
3. Quyết định thấu triệt công
hạnh, tâm nguyện của chư Bồ Tát.
4. Quyết định an trú trong vô số
Ba-La-Mật.
5. Quyết định tham dự trong những
chúng hội đạo tràng của chư Như
Lai.
6. Quyết định đủ năng lực
hiện bày thể tánh và chủng tướng
của chư Như Lai.
7. Quyết định an trú trong trí tuệ siêu
việt, giải thoát của Như Lai, thâm
nhập Bồ-Đề giác tánh của chư
Phật.
8. Quyết định an trú trong bản
nguyện vĩ đại của Đức
Phật A-Di-Đà, chắc chắn được
Ngài tiếp dẫn.
9. Quyết định ḥa hợp thân và tâm vào
trong Kim than của chư Phật.
10. Quyết định hóa sanh tự nơi hoa
sen báu, cùng một chỗ ở với chư
Phật, chư Thánh Chúng.
Như chúng tôi từng nói, người đắc
Mười Pháp Quyết Định chắc
chắn đắc qủa Đại Địa hay Pháp
Vân Địa Bồ-Tát tức Thập Địa.
Trong thư bà Nguyệt-Chiếu kính gởi Sư
Bà cũng nguyện đạt đến
qủa vị Thập Địa Bồ-Tát, chúng tôi
nghĩ bất cứ ai có thiện căn và
quyết tâm đều sẽ được như
nguyện.
Với một người tin hiểu và luôn luôn
hoan hỷ xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật
như Sư Bà Đàm-Lựu, chắc chắn
đă đắc nhiều phần trong Mười
Pháp Quyết Định mà Ngài Quán-Thế-Âm nói,
khi lâm chung hẳn phải có điều lạ.
Bây giờ xin đọc tiếp bức thư
của Phật tử Nguyệt-Chiếu:
“Thầy thường tâm sự là sở sĩ
Thầy theo Tịnh Độ v́ ḷng tin sâu xa phát
khởi khi chứng kiến Sư Phụ
của Thầy chuyên tŕ câu A-Di-Đà và khi đi
Sư Cụ biết trước ngày giờ, an
nhiên tự tại… Và cách đây mấy năm
một cụ già người Việt gốc
Hoa ở Texas (ám chỉ bà
Huỳnh-Ngọc-Tuyết-Lời người sưu
giải) cũng chỉ nhất tâm niệm
hồng danh A-Di-Đà, khi ra đi có hương thơm
và để lại hoa Xá-Lợi…
Kính bạch Thầy,
Thầy đă biết trước lúc đi, và
đă an nhiên tự tại trong tiếng
niệm Phật A-Di-Đà của Tứ chúng.
Từ lúc Thầy thị hiện bịnh
nặng đến cuối buổI Trà Tỳ,
đạo tràng Đức-Viên đă vang rền câu
“Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật” không dứt hơn ba
tháng trời. Câu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật đă
vang lên, tỏa rộng khắp nơi, vượt
cả mấy từng trời, đúng như
ước nguyện của Thầy đă
từng kể cho con: “Nơi đây có đạo
tràng Đức-Viên, giống như của chư
Tổ Tịnh Độ, mà tiếng Niệm
Phật vang rền không ngừng nghỉ”. Tín
tâm của tứ chúng phát khởi và tăng trưởng,
nhất là sau buổi Trà Tỳ, Thầy c̣n
để lại vô số Xá-Lợi cho người
sau. Một cụ ông thường Niệm
Phật bảo con: “Bây giờ không tin cũng
phải tin, đấy là chứng có hiển
nhiên nhất”.
Trước khi trở lại Xá-Lợi của
Sư Bà, chúng tôi xin trích vài đoạn
Nhật kư của một thị giả của
Sư Bà. Đọc Nhật Kư này quí vị
sẽ thấy rơ đức hạnh tu của Sư
Bà không một giờ phút xao lăng.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đại
Bồ-Tát-Quán-Thế-Âm nói: “Bất cứ chúng
sinh nào kiên tŕ, dũng mănh, xưng niệm Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật,
như mũi tên bắn thẳng tới đích
nhắm, th́ thành tựu những pháp Tinh
Tấn, nghĩa là không mỏi nhọc, nhàm chán.”
Chính Sư Bà đă thành tựu những pháp
Tinh Tấn do niệm Phật không mỏi
nhọc không nhàm chán. Sư Bà như là mũi
tên bắn thẳng tới đích. Chắc
chắn Sư Bà đă đến cơi
Cực-Lạc.
Và đây là những đoạn Nhật Kư
đáng đọc:
*Ngày 30-9-1998
Chiều nay là lớp Luật Tỳ-Kheo-Ni.
Thầy dạy gọi Sư Bác Viên-Diệu (thư
kư của chùa) vào, và đổi lớp
học bằng phiên họp “Bất thường”.
Thầy dạy rằng vô-thường có
thể đến với bất kỳ ai và
bất cứ lúc nào, Thầy muốn chúng tôi
tập điều hành công việc của chùa.
Linh cảm có chuyện không hay, rồi nước
mắt lặng lẽ rơi. Thầy chỉ
định và chúng tôi tán thành Ban Điều Hành
mới của Chùa.
*Đêm 25-12-1998
Từ chiều đến giờ Thầy
thở không được, tay chân và bụng
Thầy sưng khắp. Chúng tôi sợ qúa nên
đưa Thầy đi emergency… Sáng hôm sau, Bác
sĩ Kuo và một nhóm bác sĩ cho biết
họ không thê nào tap nước được
bởi Thầy đang uống thuốc Coumadin.
Càng nghe bác sĩ giải thích bịnh trạng
của thầy, chúng tôi như thấy đất
trời tối lại. Nhưng Thầy vẫn
vậy, mặt không một nét thay đổi.
Nh́n Sư già Nguyên run cả giọng để
thông dịch cho Thầy, trong khi sắc mặt
Thầy vẫn b́nh thản và c̣n hỏi thêm
chi tiết khác… Họ để Thầy
xuất viện v́ không thể làm ǵ hơn
được, Sư già Nguyên cố nài
nỉ họ t́m cách. Thầy an nhiên bảo:
“Con vẫn chưa thành người lớn
được.”
*Mồng 9-1-1999
Hơn 2 giờ khuya, Thầy thấy chúng tôi không
đi ngủ nên đuổi hết ra khỏi
pḥng với lư do: “Các con ra đi cho Thầy
niệm Phật…” Sư già Nguyên xuống
đánh thức cả chúng dậy lên chánh
điện niệm Phật cho Thầy, và đồng
thời gọi Thầy Vĩnh_Nghiêm, Thầy
Minh-Đức và qúy Thầy bên Duyên-Giác. Mặc
dù đang trong trạng thái hôn mê, nhưng khi
nghe tiếng niệm Phật của đại
chúng, Thầy lại tỉnh hẳn và kêu chúng
tôi vào dặn: “Sau này Thầy đi rồi,
chị em các con phài thương yêu lẫn nhau,
phải tu học và sống theo chánh pháp.”
Rồi lại thở thật yếu và
thiếp đi. Quí Thầy sang đến nơi,
vào thăm Thầy. Quí Thầy cao thanh niệm
Phật trong pḥng, Thầy đang trăn
trở bỗng nằm yên, chấp hai tay lên
ngực và niệm Phật theo… Khoảng 5
giờ sáng, khi đại chúng đang c̣n
niệm Phật ngoài Chánh-Điện, Thầy
ngồi dậy và dạy đi lấy áo
lễ và y cho Thầy… Thầy đến
thẳng giữa Chánh-Điện lễ Phật ba
lễ rất thành kính và mỉm một nụ
cười hoan hỷ. (Sau này Thầy bảo
khi nghe tiếng niệm Phật ngoài Chánh-Điện,
Thầy thấy vui qúa nên mới ra lễ
phật.)
*Mồng 10-1-1999
Thầy trở về căn pḥng đơn sơ
của Thầy dưới nhà chúng. Thầy
bảo tất cả chúng tôi ra ngoài để
yên cho Thầy niệm Phật. Chúng tôi lấp
ló ngay ngạch cửa th́ thầy quở: “Thương
Thầy th́ phải để cho Thầy
niệm Phật chứ…” Thầy trăn
trở nhiều, nhưng vẫn nghe tiếng
rầm ŕ niệm Phật của Thầy.
Thầy Vĩnh-Nghiêm đáp máy bay lên thăm.
Thầy lại nằm yên, chấp tay lên
ngực nghe Thầy Vĩnh-Nghiêm nói chuyện.
Khoảng một giờ sau, Thầy Quang-Nghiêm,
Thầy An-Tường, quí Thầy bên Duyên-Giác,
Thầy Minh-Đức, Thầy Từ-Lực và
nhiều vị nữa đă vân tập trong pḥng.
Thầy Vĩnh-Nghiêm cho gọi tất cả chúng
tôi vào và dặn không được khóc. Quí
Thầy bắt đầu niệm Phật vang
rền trong pḥng, chúng tôi niệm Phật nhưng
vẫn khóc. Ba hôm nay Thầy trăn trở là
vậy, vậy mà giờ này Thầy nằm
thật yên, tay chấp ngang ngực, miệng
nhẩm theo tiếng niệm Phật của quí
Thầy và đại chúng. Khoảng một
giờ sau, Thầy ra dấu đỡ Thầy
ngồi dậy. Thầy dường như
tỉnh hẳn lại, nói cám ơn quí
Thầy.
*Ngày 11-1-1999
Chúng tôi đưa Thầy vào bịnh viện
để “tap” nước. Mắt Thầy lúc
này cứ hướng về một cơi xa xăm
nào đó, Thầy nh́n mà như không nh́n
vậy. Chúng tôi sợ qúa nắm bàn tay
Thầy, Thầy lại nh́n chúng tôi mỉm cười…Có
một em bé đợi Mẹ em khám bịnh
gần đó, chúng tôi chơi tṛ bắt cá
bằng tay với em. Em bé ṿi chơi với
Thầy. Thầy đưa hai tay lên cho em
bắt cá, rồi bỗng buông xuông xuống, và
mắt nhắm nghiền. Chúng tôi sợ qúa
gọi Bác sĩ Brophy đến. Sau khi thử
máu bác sĩ cho biết Thầy bị thiếu
Sodium trầm trọng và phải nhập
viện ngay. Nhiều bác sĩ đến khám
bịnh cho Thầy trong kinh ngạc. Bác sĩ Đỗ
cho rằng tất cả bịnh nhân nào ở
mức sodium của Thầy th́ đều
bị hôn mê măn tính hết rồi, họ không
hiểu v́ sao Thầy vẫn c̣n tỉnh táo, và
chỉ bị mê trong đôi phút như vậy?
Thầy mỉm cười bảo Sư già Nguyên
thông dịch: “Con nói với họ là nhờ
Thầy niệm Phật hằng ngày đó.”
Lần này Thầy nhập viện khá lâu. Trên
một tuần lễ ở bịnh viện
chỉ để truyền sodium và calcium mà vein
trên cánh tay Thầy ch́m qúa. Y tá phải
lấy máu để thử mỗi ngày, họ
đâm kim nhiều đến độ họ
phải xót xa xin lỗi v́ hai cánh tay Thầy
giống như needle spin vậy đó. Vậy mà
mỗI lần họ rút kim ra chỗ này để
đâm vào tay t́m vein khác th́ Thầy lại:
“Cám ơn cô thật khéo tay.” Chúng tôi đau
ḷng nên càm ràm đôi câu với họ th́
Thầy lại quở: “Gớm, con xem thân
Thầy như là bong bong vậy. Có sao đâu,
cứ để họ làm công việc họ
cần làm. Tại tay Thầy khó chứ đâu
phải họ dở mà con cứ nhăn.”
Rồi Thầy lại cười và “thank
you” họ. Lần sau y tá đến, th́
họ xin cúng dàng Thầy một vein để
Thầy bớt đau. Thầy mỉm cười:
“Cô để mà dùng.” Họ ngỡ ngàng,
khi đoán được ư Thầy, họ ôm
tay Thầy mà cảm động v́ họ
biết Thầy không đành để họ
khổ, và chỉ chịu khổ một ḿnh.
Từ đó, mỗi lần Thầy vào
bịnh viện, họ lại gọi Thầy là
“Mama” (Mẹ).
*Ngày 11-12-1999
Vạn Pháp lại trở thành tăm tối!
Thầy lại không thở được và
đau thật nhiều nơi lưng và hai
cạnh sườn. Chúng tôi lại đưa
Thầy đi cấp cứu… Bác sĩ vào thăm,
khi họ xem bụng Thầy th́ Thầy cườI
bảo: “bụng tôi giống như biển
cả!” bác sĩ cấp tốc xin thuốc
giảm đau cho Thầy rồi quay qua hỏi
chúng tôi làm sao mà Thầy c̣n “vui đùa”
được trong nỗi đau kinh hoàng đó.
Chúng tôi lại một lần nữa lặp
lại lời Thầy, “nhờ Thầy
niệm Phật hằng ngày thôi!”
*Ngày 15-3-1999
Sức khỏe Thầy suy sụp nhiều,
Thầy dạy chúng tôi thỉnh chư Tăng
về là lễ cầu siêu cho Thầy. Chúng tôi
khóc xin Thầy đừng đi, nhưng
Thầy bảo Thầy không tŕ hoăn được
nữa. Quí Ngài đến tụng Kinh cầu
nguyện, chúng tôi đẩy xe đưa
Thầy lên bạch Đại Tăng. Vẫn
vậy, Thầy rất tự tại và thành kính
yêu cầu quí Ngài tụng chú Văng Sinh để
cầu siêu cho Thầy. Thể theo lời
thỉnh cầu của Thầy, quí Ngài đă
tụng chú Văng Sinh và niệm Phật trên
một giờ đồng hồ. Thấy chúng
tôi buồn xo, Thầy dạy chúng tôi nên
nhất tâm niệm Phật cầu nguyện cho
Thầy tiêu hết nghiệp dữ mà
được văng sinh.
*Ngày 23-3-1999
Bác sĩ của Thầy vào thăm Thầy, bác
sĩ hỏi Thầy có biết khi đi
rồi th́ Thầy về đâu không? Thầy
khẳng quyết: “Về cơi Cực-Lạc
chứ về đâu.”
*Ngày 25-3-1999
……….. Điệp khúc: “Dậy, dậy, cho
Thầy dậy” bỗng trở thành thân thương
đối với chúng tôi trong nửa tháng nay.
Có lần đang đêm Thầy muốn
dậy hoài, chúng tôi thưa:
-Bạch Thầy, bây giờ là ban đêm
Thầy dậy làm ǵ ạ?
-Cho Thầy dậy để Thầy làm
bổn phận của người tu.
-Bạch Thầy, người tu phải làm ǵ
ạ?
-Là phải giữ chữ Tín. Là phải
dậy trước trời sáng.
Bằng những câu thật ngắn, thật
đứt đoạn. Thầy luôn nhắc chúng
tôi phải niệm Phật. Thầy dạy:
“Các con phải dơng mănh, tinh tiến niệm
Phật khi c̣n khỏe. Trừ hao đến lúc
bịnh, thân tâm b́ quyện, niệm Phật
rất khó định tâm. Mê th́ nhiều mà
ngộ th́ ít.” Sợ Thầy bị phân tâm Sư
già Phước thưa: “Bạch Thầy, mê
hay ngộ con thỉnh Thầy cứ tiếp
tục niệm Phật.” Thầy khẻ
nhẹ vào Sư già và bảo: “Không phải
dễ như chị nghĩ đâu chị hai,
chín cảnh mê mới có một cảnh
ngộ thôi.” Với Thầy, việc hành tŕ
phải nghiêm mật lắm, và chỉ có
vậy, chỉ cần niệm Phật không gián
đoạn, không phải chỉ nơi ư mà c̣n
nơi thân nữa.
Sư Bà chánh thức ra đi vào 21 giờ 27 phút
ngày 26-3-1999 thọ thế 67 năm, hạ
lạp 48 năm. Đọc phần nhựt kư, chúng
ta thấy đức hạnh của Sư Bà
qủa là hơn người. Dù chứng
bịnh ung thư hành hạ dữ dội nhưng
Sư Bà vẫn không than van, lúc nào cũng
lấy chữ nhân và tha làm đầu. Y tá chích
nát gân tay mà vẫn không trách mà c̣n “cám
ơn”. Lúc nào Sư Bà cũng cố gắng
niệm Phật không gián đoạn, mặc dù
đôi khi cơn bịnh cũng làm cho ngưng
trệ và không quên dạy các nữ đệ
tử rằng: “Các con phải dơng mănh…”
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đại
Bồ-Tát-Quán-Thế-Âm dạy: “Bất
cứ chúng sanh nào phục sức than tâm
bằng danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật th́
sẽ đắc những năng lực
giải thoát không thể nghĩ bàn.” Niệm
Phật không ngừng như Sư Bà chính là
phục sức thân tâm bằng danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật,
Sư Bà đă đắc những năng
lực giải thoát không thể nghĩ bàn. Sư
Bà đă chứng được Pháp Thân như
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật đă nói, và
khi ra đi đă lưu lại nhiều trăm
viên Xá-Lợi cùng trái tim màu ngọc thạch
và đồng vàng. Xin đọc một đoạn
bài viết của Thầy Thích-Quảng-Chơn
nói về Xá-Lợi của Sư Bà:
“Sư Bà để lại rất nhiều Xá-Lợi
gồm có xương, răng, tim và ngọc. Xá-Lợi
xương th́ nhiều lắm, lớn nhỏ,
h́nh dạng và màu sắc khác nhau. Có mảnh
trắng đục như sữa, sắc óng như
ngà; có mảnh nhỏ màu đục như
đất; có mảnh màu vàng nhạt như
vỏ trứng gà; có mảnh ánh màu xanh như
cẩm thạch; có mảnh trắng như hoa
tuyết; có mảnh tím hồng như màu
kiến sen; có mảnh vàng nhạt và co
nhiều đoạn xương màu như đồng
vàng hay thép nung. Răng của Sư Bà c̣n
tất cả 28 chiếc, có hai chiếc ánh màu
kiến sen và một chiếc màu lục. Tôi
ngạc nhiên nhất khi Sư Cô nói trái tim Sư
Bà vẫn c̣n và chỉ cho tôi một khối màu
nâu đỏ, như bàn tay nắm lại
của một em bé vừa mới sinh. Hơn phân
nửa diện tích bề mặt của trái
tim được bao phủ một lớp màu
xanh cứng như thạch nhũ, nâng trong tay
thật nhẹ và có cảm giác thanh thản như
được an ủI và khuyến khích.
Một cảm giác tâm linh phảng phất bóng
của một Ni Sư đức hạnh như
in đậm ở trong đây. Ngọc Xá-Lợi
của Sư Bà th́ thật là nhiều, lớn
nhỏ đến gần trăm viên. Có viên
đen huyền óng ánh, có viên màu trắng
đục như hạt gạo, có viên màu
trắng như san hô. Những viên ngọc Xá-Lợi
h́nh dạng khác nhau, có hạt tṛn như
hạt đậu dính chặt vào một
mảnh xương, có hạt h́nh bầu
dục, cũng có những hạt tṛn nhỏ
đính thành một chuỗi dài trên một
mảnh xương như chuỗi ngọc trai.
Rất ngạc nhiên v́ đây là lần đầu
tiên tôi thấy Xá-Lợi của một vị
Cao Ni. Trong đời tôi chưa bao giờ nghe
hoặc thấy Xá-Lợi của một vị
nữ xuất gia. Theo lịch sử truyền
thuyết thừa Phật giáo rất hiếm các
vị Cao Ni để lại Xá-Lợi. Trong Đại
Chính Tân Tu quyển Tỳ Kheo Ni Truyện
chỉ viết về hai vị Cao Ni có để
lại Xá-Lợi. Nói như vậy không
phải là thiếu các bậc Cao Ni đắc
đạo, chứng chánh qủa, hay ngộ
được tinh yếu của giáo lư Đại
Thừa. Nhưng hiếm thấy Xá-Lợi
của các vị Cao Ni thờ ở các chùa
hoặc tổ đ́nh. Lư do dễ hiểu là
ngày xưa các vị tổ khai sáng một tông
môn hoặc một tổ đ́nh lớn ở
Trung Quốc cũng như Việt Nam đều
là các bậc Cao Tăng.
Xá-Lợi của Sư Bà để lại cho
Ni chúng và Phật tử như những viên
ngọc quí, lời dạy của Sư Bà như
đài gương sáng, như bản đồ
chỉ đường cho Phật tử đi
theo công hạnh của Người mà huân
tụ giới đức, trang nghiêm cơi
Tịnh mà Sư Bà đă khai sáng."
Trích
trong sách “Những Chuyện Văng Sanh Lưu Xá
Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.
|
|
|