Trang
Chủ
Niệm
Phật Có 10 Điều Lợi Ích Lớn
Những Chuyện Niệm Phật Văng Sanh Lưu Xá
Lợi
Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung
Các
Kinh, Sách Phật Giáo
Thuyết
Pháp - Video
Thuyết
Pháp - Audio
Các
Trang Web về Phật Giáo
Để thỉnh các dĩa Video và
Audio miễn phí - xin gởi email về
[email protected]
|
|
Nam Mô
A Di Đà Phật |
|
|
|
|
|
Tứ Hoằng Thệ Nguyện
Chúng Sanh Vô Biên, Thệ
Nguyện Độ. (1 lạy)
Phiền Năo Vô Tận,
Thệ Nguyện Đoạn. (1 lạy)
Pháp Môn Vô Lượng, Thệ
Nguyện Học. (1 lạy) Phật
Đạo Vô Thượng, Thệ Nguyện Thành. (1 lạy) |
|
|
|
|
|
KHỔ
DO ÁI MÀ CÓ
Tâm Diêu
(trích trong Đặc San Hoa Nghiêm năm 2002-PL 2546)
Kinh Trung A Hàm kể rằng:
Một hôm Phật ôm b́nh đi khất thực
tại một thôn nọ. Ông Thôn Trưởng
tên Nacada đến gặp Phật và hỏi:
"Nguyên nhân nào gây ra khổ."
Phật hỏi: "Nếu trong thôn ông có người
chết hay bị tai nạn, ông có khổ không?".
-Bạch Thế Tôn: có khi khổ, có khi không.
-Tại sao?
-Nếu người chết hay bị tai nạn
là người thân thuộc th́ khổ, nếu
người khác th́ không.
Phật kết luận: "khổ là do ái mà
có".
Kinh Pháp Cú số 215 cũng nói: "Hữu ái
sinh ưu, hữu ái sinh úy. Vô sở ái nhạo,
hà ưu hà úy." Nghĩa là có tham ái mới
sanh lo sợ, nếu không tham ái th́ có lo sợ
ǵ.
Chữ ái trong kinh nghĩa rất rộng. Ái là
thương yêu, nâng niu, đắm say, dính
mắc, bám lấy, giữ chặt. Ái thân
gọi là ái ngă hay chấp ngă. Ái những ǵ
bên ngoài thuộc về ngă như vợ con, thân
thuộc, tài sản, danh vọng, quyền uy. v.v...
gọi là ngă sở hay chấp pháp.
Nguồn gốc mọi sự khổ trên đời
là chấp Ngă, chấp Pháp mà có. Ví dụ: Đêm
khuya, không đèn chị B di chuyển trong nhà, va
phải cột nhà u trán, tuy thấy đau, nhưng
tâm chị không khổ. Nhưng trái lại
một người nào mắng nhẹ chị ta
trước đám đông, th́ chị ta rất
khổ, nếu người đó có uy quyền,
đành phải nhẫn nhục chịu đựng,
nhưng về nhà, ăn không ngon ngủ không
yên, thao thức trằn trọc buồn giận
người đă sỉ nhục ḿnh trước
mọi người. Khổ đó do đâu mà
có? V́ ái ngă, lời mắng đó làm thương
tổn bản ngă, tuy lời nói không làm
nhức lỗ tai, nhưng khổ hơn bị va
phải cột sưng trán nhiều. Nếu không
tu, không biết buông xả, th́ khổ đó
trải qua nhiều ngày chưa nguôi.
Hoặc anh chị A có cháu gái 14 tuổi đi
học đêm thường 10 giờ tối là
về nhà. Hôm nay đến 12 giờ hơn chưa
thấy về. Anh chị bắt đầu lo
lắng, rồi sợ cháu gặp tai nạn? hay
bị bắt cóc? v.v... Có lo sợ là v́ anh
chị thương con. Nếu con hàng xóm th́ anh
chị đâu có quan tâm mà lo sợ. Lo sợ
phát xuất do ái mà có.
Một câu chuyện trong kinh A Hàm kể rằng:
"Khi Phật thuyết giảng gốc khổ
là do ái mà có, th́ một số ngoại đạo,
vốn đă chống đối đức
Phật v́ phần lớn đệ tử
họ đă theo Phật, nên họ vịn vào
lời giảng "Ái là gốc của khổ"
để phê phán Phật. Họ nói: Ái là
nguồn thương yêu, là hạnh phúc của
nhân loại, tại sao Phật bảo ái là
khổ? Lời phê phán của các phái ngoại
đạo đến tai vua Ba Tư Nặc. Vua cũng
không chấp nhận "Ái là khổ". Hoàng
hậu Mạc Lợi thường đi nghe
Phật thuyết giảng nên bà tin lời
Phật dạy là chân thật. Nên Hoàng hậu
hỏi lại vua Ba Tư Nặc: "Vua có thương
yêu công chúa không?" Vua trả lời: "Thương
lắm chứ, công chúa là nguồn hạnh phúc
của trẩm mà." Hoàng hậu Mạc
Lợi hỏi tiếp: "Có khi nào vua nghĩ
rằng một ngày nào đó bất th́nh ĺnh
công chúa nhuốm bịnh rồi qua đời
không?"
Vua Ba Tư Nặc im lặng suy gẫm chốc
lát rồi trả lời: "nếu công chúa
có mệnh hệ ǵ th́ trẫm sẽ không
sống nổi." Hoàng hậu trả lời:
"Như vậy Phật bảo ái là khổ
đâu phải là sai?"
C̣n bao nhiêu cái tham ái khác như tiền tài, danh
vọng, quyền uy, sắc đẹp khi chưa
được, th́ mong cầu đă khổ
rồi. Được rồi bảo vệ, ǵn
giữ được nó là khổ thứ hai.
Khi chúng mất th́ càng khổ hơn. Tham ái
khổ qua ba giai đoạn. Mong cầu khổ,
ǵn giữ khổ, mất khổ. Nếu không
tham ái lấy ǵ khổ.
Chúng sanh phản ứng khi gặp khổ không
khác ǵ con chó bị trẻ nghịch ném đá
vào lưng, nó đau và giận dữ chạy
theo ḥn đá để sủa, nhường như
muốn cắn xé nuốt chửng ḥn đá. Nó
tưởng ḥn đá là nguyên do làm cho nó đau,
nó không biết thủ phạm chính làm cho nó
đau là trẻ nghịch đă ném đá. Chúng
ta làm khổ ḿnh th́ ḿnh nhắm vào đối
tượng làm ḿnh khổ mà giận dữ,
thù ghét, ăn miếng trả miếng cho hả
dạ. Không ngờ tâm ái nhiễm của chúng
ta là thủ phạm chính làm chúng ta khổ.
Mỗi khi chúng ta khổ, chúng ta phải nh́n
lại tâm, xem nguyên nhân nào làm cho ta khổ mà
buông bỏ, dứt trừ th́ hết khổ. Có
10 triền cái của tâm tham, sân, si, mạn, nghi,
tà kiến (trong tà kiến có Thân kiến
tức là chấp ngă, Biên kiến là chấp
thân này thường c̣n hay đoạn diệt.
Kiến thủ là chấp suy nghĩ ta là đúng.
Giới cấm thủ là chấp chặt
những giới đă sai trái, lỗi thời
đang giữ là đúng.)
Ví dụ một chàng thư sinh mới lớn
lên, để ḷng yêu thương một cô
hàng xóm, nhưng không được cô hàng xóm
đáp lại, chàng thư sinh đau khổ
muốn tự vận quyên sinh. Khổ không
phải cô hàng xóm làm cho chàng thư sinh khổ
mà do tâm ái nhiễm của chàng thư sinh thương
cô hàng xóm, làm cho chàng ta khổ. Muốn hết
khổ chàng thư sinh kia không ái nữa là
hết khổ. Chớ đổ thừa cô hàng
xóm không đáp lại t́nh thương của
chàng, làm khổ chàng. Nếu nghĩ cô hàng xóm
làm khổ chàng thư sinh th́ không khác ǵ
phản ứng của con chó nói trên.
Người tu đạo Phật hằng soi
lại tâm ḿnh, xem tâm bị ái nhiễm chổ
nào mà buông gỡ, th́ hết khổ. Cũng như
một vị lương y t́m ra nguyên nhân gây
bịnh, mà dứt trừ. Bịnh lành th́
hết khổ. Hết khổ th́ an vui.
Phật, Bồ Tát chỉ cứu chúng ta bằng
cách chỉ cho chúng ta thấy những nguyên nhân
nào gây đau khổ để tránh, chớ
không cứu chúng ta khi đă gặt qủa.
Nguyên nhân chính gây ra bao nhiêu đau khổ trên
cơi đời này đều từ chấp ngă
mà phát sinh. V́ tưởng thân này là thật
"Ta" nên cưng qúi nó, thỏa măn
những ǵ nó đ̣i hỏi, dù phải hại
người khác. Biết bao sự việc ở
đời, mưu này, chước nọ,
giết hại lẫn nhau cũng do từ cái
thân hư dối tạm thời này. Bao nhiêu
tội lỗi tạo ra cũng v́ nó. Ai nói
nặng, nói nhẹ đụng đến cái
ngă của ta là đùng đùng nổi cơn
giận v́ ái ngă này. Không những chỉ
khổ đời này mà c̣n tiếp tục
khổ các đời sau nữa. Lăo Tử nói:
chúng sanh đại họa v́ có thân này.
Phật khuyên: "Không thương, không ghét
thí tâm an." Thương ghét là đồng
tiền hai mặt. Khi thương th́ muốn
nắm giữ, nắm giữ không được
th́ khổ. C̣n ghét th́ muốn xa ĺa, xa ĺa không
được cũng khổ.
Đối với kẻ xuất gia th́ phải xa
ĺa ái mới mong giải thoát sinh tử. Luôn
luôn quán ngũ uẩn giai không, mới vượt
qua mọi khổ ách mà Ngài Quán Tự Tại
Bồ Tát đă hành thâm quán chiếu, như
trong kinh Bát Nhă đă nói và chúng ta cũng thường
tụng và thuộc ḷng.
Trong Kinh Thập Nhị Nhân Duyên, cũng nói:
"Dứt ái th́ thoát sanh tử." Và trong
kinh Niết Bàn cũng nói: "Vô ngă là Niết
Bàn." Kinh Kim Cang nói: "Bồ Tát bố thí
mà c̣n thấy Ngă, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả
th́ chưa phải là Bồ Tát, v́ c̣n ngă th́ chưa
thấy Đạo."
Nhưng đối với người tại gia,
c̣n có vợ con phải thương yêu, săn
sóc, phải tạo dựng cơ nghiệp và
giữ ǵn th́ tu cách nào?
Phật cũng nhận thấy rằng: "Không
thể mọi người đều buông ái
để xuất gia hết được. Nên
Phật đă chế ra năm giới cho
Phật tử tại gia ǵn giữ, vẫn c̣n
ái, nhưng có giới hạn. Không v́ ái ngă mà
giết hại người khác, đó là
giới cấm sát sanh; không v́ thỏa măn nhu
cầu bản thân và thân bằng quyến
thuộc mà phạm tội trộm cướp
tài sản của kẻ khác; không v́ tham nhan
sắc mà phạm tội tà dâm (chỉ một
vợ một chồng mà thôi); không v́ lợi
ḿnh mà vu oan, giáng họa cho kẻ khác. Để
trí tuệ luôn luôn được sáng suốt,
mới phân biệt được phải trái,
điều ǵ cần phải tránh, nên Phật
cấm uống rượu hoặc dùng chất
độc hại khác làm rối loạn tâm
thần sáng suốt, đưa đến
hậu qủa tai hại và tội lỗi.
Muốn tiến xa trên đường tu học,
Phật cũng khuyên Phật tử tại gia tu
thập thiện: bố thí, cứu người,
cứu vật, nói lời ái ngữ, chân
thật, xả tham, sân, si, để được
hưởng phước báo đầy đủ
khi tái sanh vào cơi Nhân, Thiên cũng là nấc
thang cần thiết để bước lên
các nấc thang giải thoát (Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, Phật Thừa) về sau.
|
|
|