NAM MÔ A DI ĐÀ PHÂT

Nam Mô A Di Đà Phật - Niệm Di Đà Không Xao Lăng - Chắc Chắn Được Văng Sanh


Trang Chủ

Niệm Phật Có 10 Điều Lợi Ích Lớn

Những Chuyện Niệm Phật Văng Sanh Lưu Xá Lợi

Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung

Các Kinh, Sách Phật Giáo

Thuyết Pháp - Video

Thuyết Pháp - Audio

Các Trang Web về Phật Giáo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Để thỉnh các dĩa Video và Audio miễn phí - xin gởi email về

[email protected]

 

Nam Mô A Di Đà Phật

 

 

Tứ Hoằng Thệ Nguyện

Chúng Sanh Vô Biên, Thệ Nguyện Độ. (1 lạy)

Phiền Năo Vô Tận, Thệ Nguyện Đoạn. (1 lạy)

Pháp Môn Vô Lượng, Thệ Nguyện Học. (1 lạy)

Phật Đạo Vô Thượng, Thệ Nguyện Thành. (1 lạy)

XÁ LỢI BÀ DIỆU-HƯNG
NGUYỄN-THỊ-TÂN
Văng sanh ngày 29-7-1999

Nữ Cư Sĩ Diệu-Hưng, thế danh Nguyễn-Thị-Tân, quê tại Trà-Vinh. Năm 24 tuổi chồng mất, trong khi đứa con trai duy nhất vừa mới sanh 10 tháng, bà ở vậy nuôi con suốt 54 năm.
Bà quy y năm 40 tuổi và đă thọ Bồ Tát giới tại gia. Trước kia bà ăn chay 1 tháng 10 ngày và 20 năm trở lại đây bà ăn chay trường. Bà thường đi chùa và thích làm Phật sự cùng các việc phước đức như giúp chùa, giúp Tăng Ni và giúp trẻ em mồ côi.
Hồi ở Sài G̣n, bà thường đi chùa Ấn Quang, nhưng cũng thường đến cúng dường các chùa khác trong đó có chùa Huệ-Nghiêm.
Khi qua Mỹ vào năm 1991, bà may mắn gặp Thầy Thích-Trí-Tuệ tại chùa Vạn-Hạnh, là vị Sư mà bà từng quen biết ở chùa Huệ-Nghiêm. Nhưng Chùa Vạn-Hạnh lại xa nhà, v́ vậy mà bà thường đi Chùa Vạn-Phước của Thầy Thích-Vân-Đàm. Sau này Chùa Vạn-Phước đổi lại thành Tu Viện Pháp-Vương. Nhà Phật nói tất cả đều tùy duyên và điều quan trọng là tu như thế nào đạt ngộ, lâm chung lưu lại Xá-Lợi!
Thiên hạ có mấy chục triệu người tu, tại sao chỉ riêng có một số ít người có Xá-Lợi, như là bà Diệu-Hưng? Xá-Lợi là ǵ? Do đâu có Xá-Lợi?
Đại sư Tuyên-Hóa nói: “Xá-Lợi có được là do con người tu hành nghiêm tŕ giới luật không sát sanh, không trộm cắp, chủ yếu là không tà dâm. Không tà dâm th́ bảo bối nơi thân ḿnh không bị tiêu hao mất. Bảo bối này tôi tin rằng qúi vị đều biết rơ; bởi vậy trọng yếu là sự tŕ giới luật. Căn bản sanh mạng chúng ta là vật ǵ? Nếu qúi bạn giữ giới không tà dâm th́ tự nhiên qúi vị sẽ có Xá-Lợi quang minh xán lạn, kiên cố hơn cả kim cương.”
Theo chúng tôi không phải tuyệt đối đều như vậy hết, v́ Sa Di Thích-Minh-Đạt, bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết đều lập gia đ́nh và có Xá-Lợi. Nhưng trên căn bản th́ Đại Sư Tuyên-Hóa nói không sai. Người không tà dâm th́ bảo bối nơi ḿnh không bị hao.
Chúng tôi nêu ra sự kiện này để nhắc qúi vị nhớ một điều, bà Diệu-Hưng vừa lập gia đ́nh th́ chồng chết lúc mới 24 tuổi và bà ở vậy nuôi con cho đến lúc ĺa đời. Bà đă xa ĺa dục ái từ hồi c̣n trẻ. Bà chuyên niệm Phật và tŕ tụng Thần Chú như Sư Bà Đàm Lựu.
Đây là điều tốt cho bà trên bước đường tu. Người đời không hiểu cho rằng không chồng là bất hạnh, nhưng với người tu, đó là cái duyên của sự tu hành. Không ai có thể nói trước sự tốt xấu, may rủi của một người.
Trong quyển Đường Mây Trong Cơi Mộng, Đại Sư Hám-Sơn nói nơi phần Khai Thị từ trang 321, rằng: “Pháp môn Niệm Phật cầu văng sanh cơi Tây Phương Cực-Lạc, vốn là đại sự cắt đứt ḍng sanh tử.” V́ vậy bảo rằng chỉ cần xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật là có thể cắt đứt sanh tử. Do đó, ngày nay mới phát tâm niệm Phật.
Song, nếu không biết cội gốc của sanh tử, mà cứ niệm Phật măi th́ cuối cùng sẽ đi về đâu? Nếu Niệm Phật mà không đoạn được cội gốc của sanh tử th́ làm sao cắt đứt ḍng sanh tử. Cội gốc của sanh tử là ǵ?
Cổ nhân nói: “Nghiệp bất trọng bất sanh ta bà. Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ.” Thế nên biết rơ, ái dục là cội gốc của sanh tử…
Ngày nay suy nghĩ nh́n lại, xem coi lúc nào có một niệm tạm rời cội gốc ái dục này đâu! Hạt giống ái căn, bao kiếp tích lũy sâu dày, nên khiến sanh tử không cùng tận. Hiện tại, vừa phát tâm niệm Phật, nếu chỉ vọng cầu sanh Tây Phương, mà danh tự ái dục (tức cội gốc của sanh tử) lại không biết đến, th́ khi nào mới niệm đoạn được nó? Không biết cội gốc của sanh tử, nên một bên niệm Phật, một bên cội gốc của sanh tử lại tăng trưởng nhiều hơn. Cả hai việc niệm Phật và cội gốc sanh tử chẳng quan hệ với nhau. Dẫu niệm cách nào đi nữa, đến khi lâm chung qúi vị chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền. Khi đó lại cho rằng Phật không có thần lực, nên liền oán trách niệm Phật không linh nghiệm, dẫu sau này có hối hận cũng không kịp.
V́ vậy, khuyên người niệm Phật, đầu tiên phải biết ái dục là cội gốc của sanh tử. Ngày nay dốc ḷng niệm Phật, th́ niệm niệm phải đoạn ái căn này.
Ái thuộc về luyến ái, tham ái. Dục tức là t́nh dục. Ái là thương yêu, là thích về t́nh dục. Bà Diệu-Hưng mất chồng lúc 24 tuổi, bà quyết ở vậy nuôi con. Do đó những ái dục trong ái căn của bà lần lần tuyệt dứt, nên khi bà quyết tâm và chí thành niệm Phật, th́ bà dễ thành công hơn người c̣n dính líu ái dục.
Cho nên đối với người c̣n nặng về chồng hay vợ, Đại Sư Hám-Sơn nói: “Lúc cảnh t́nh của vợ chồng hiển hiện, phải xoay nh́n vào tâm. Một danh hiệu Phật có thể đối địch với ái dục, th́ sẽ cắt đoạn được ái căn.”
Vậy cái ǵ là “cội gốc của sanh tử?” Đại sư Hám-Sơn nói: “Tức là tham đắm hưởng thọ vật chất trên thế gian, cùng sắc đẹp, lời hay, vị ngọt, khẩu nồng. Tất cả đều là gốc khổ.”
“Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ!” Ái mà không đoạn dứt làm sao sanh về Tịnh-Độ? Nhờ ở góa nuôi con trong suốt 55 năm trường cho đến lúc lâm chung, nên bà Diệu-Hưng đă diệt được ái dục; do không c̣n tham luyến ái dục mà tự nhiên bà cắt đoạn được cội gốc của sanh tử. Lại nữa bà Diệu-Hưng chuyên tu Tịnh-Độ suốt bốn mươi năm ṛng, lúc nào miệng cũng niệm Phật. Đứa con dâu duy nhứt của bà, mà bà xem như con ruột và đứa cháu trai đă trên 20 tuổi, khi bà Nội đau, đêm đêm ngủ trong pḥng để tiện săn sóc cho bà, tất cả đều nói với chúng tôi rằng: Bà Diệu-Hưng lúc quét rác cũng niệm Phật, hốt lá, xới đất trồng rau cũng niệm Phật. Nhớ con bà cũng niệm Phật.
Năm 1981, theo lời Mẹ, con trai bà trốn thoát qua Mỹ, bà ở lại Việt Nam thêm mười một năm. Đây là mười một năm thương nhớ con trai cùng đùm bọc sống với con dâu và cháu nội. Bà Diệu-Hưng đă biến niềm thương nhớ thành câu niệm Phật. Càng nhớ thiết tha, bà càng niệm Phật tha thiết và chí thành.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Phật nói: Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, th́ uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sinh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân, âm thầm ứng hợp vớI Bi Trí Trang Nghiêm của Phật.
Đây là giai đoạn bà Diệu-Hưng âm thầm chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân mà bà không hề hay biết, v́ nhờ chí thành niệm Phật khiến cho Tâm thể được thanh tịnh.
Cũng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 92, ĐạI Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói: “Bất cứ chúng sinh nào, hễ nhứt tâm xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, dù chỉ một câu duy nhất, th́ sẽ xuất sinh những năng lực bất tư nghị.” Nơi đây Ngài Quán-Thế-Âm nói bất cứ ai nhứt tâm, như bà Diệu Hưng, dù chỉ xưng niệm danh hiệu Phật một câu duy nhứt, th́ sẽ xuất sinh những năng lực bất khả tư nghị.
Tại sao vậy? V́ danh hiệu Phật có khả năng bất tư nghị, nên người nhứt tâm xưng niệm Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật như bà Diệu-Hưng, dù chỉ một câu thôi cũng sẽ có nhiều diệu dụng, trong đó có năng lực cải biến Ta-Bà thành cơi Cực-Lạc.
Cũng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 69, Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát nói: “Danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật như chiếc xe khổng lồ, v́ có thể chuyển vận hết thảy Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm nhanh chóng tới Phật địa.” Bà Diệu-Hưng cũng là một Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm nên được chiếc xe khổng lồ đưa tới Phật địa nhờ nhứt tâm và chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật.
Bà Diệu-Hưng đă được các ưu điểm như:
1. Diệt được ái dục tức diệt trừ cộI gốc của sanh tử.
2. Nhứt tâm và chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật.
Giai đoạn đầu Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng chứng nhập Sơ Phần Pháp-Thân tức Sơ-Địa Bồ Tát hay Hoan-Hỷ Địa Bồ Tát. Và trong mười năm xa cách bên này Việt Nam, bên kia xa xôi là nước Hoa Kỳ, niềm nhớ thương dệt bằng danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, lâu ngày kết thành thân kim cương, một khối lưu ly cứng chắc vô biên.
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 106, Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói: “Bất cứ chúng sanh nào phục sức thân tâm bằng danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật sẽ đắc những năng lực giải thoát không thề nghĩ bàn.” Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng lúc nào cũng nhứt tâm niệm Phật tức là đă phục sức thân và tâm bằng danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, đắc những năng lực giải thoát không thể nghĩ bàn, cho nên Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng đă vượt thoát khỏi Tam giới ở cơi này mà đến cơi Cực-Lạc Tịnh-Độ.
Mười năm xa con, mười năm thương nhớ, mười năm niệm Phật, biến nhớ thương thành xâu chuỗi niệm Phật dài đăng đẳng, thành một ḍng tâm luân chuyển khắp thân tâm, ăn sâu vào trong xương tủy chỗ nào cũng là danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật.
Điều này, Ngài Quán-Thế-Âm có nói nơi trang 88: “Tiếp tục xưng niệm Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết vào Viên-Giác-Tánh. Đó là danh hiệu Phật tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ Như-Lai-Tạng… Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, ḥa tan căn trần-thức đều nhập vào Viên-Giác-Tánh b́nh đẳng bất động, thường trụ như hư không và tṛn đầy chiếu suốt mười phương.”
Trên đây Đức Quán-Thế-Âm có nói về Như-Lai-Tạng và Viên-Giác-Tánh. Tạng có nghĩa là cái kho. Khi cái kho của một chúng sanh c̣n chứa đủ thứ tốt xấu, phiền năo và phân biệt của tâm thức th́ gọi là Tạng thức hay Tàng thức. Và khi cái kho được lọc sạch phiền năo và chỉ c̣n chứa sự nhứt tâm niệm Phật th́ Như-Lai-Tạng hiển lộ. Cho nên Ngài Quán-Thế-Âm nói: “Danh hiệu Phật tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc, mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ Như-Lai-Tạng.” mỗi sát na có nghĩa là mỗi tích tắc. Khi phiền năo ở trong Tạng thức lần lần sạch, th́ Chơn Như trong Như-Lai-Tạng hiển lộ. Mà, Chơn Như tức là Pháp Thân.
Theo Từ-Điển Phật Học Hán Việt th́ Như-Lai-Tạng là cái Nhơn, mà Viên-Giác-Tánh là cái Qủa. Viên-Giác-Tánh có nghĩa là cái Tánh Giác Viên Măn, cũng được gọI là Phật-Tánh hay Pháp-Thân.
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 102 nói: “Bất cứ chúng sanh nào chuyên tâm tŕ niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, th́ cảm ứng những năng lực Tổng Tŕ không thể nghĩ bàn.” Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng đă chuyên tâm tŕ niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật cho nên đă chứng nhập Sơ-Phần-Pháp-Thân-Phật; căn trần thức đều ḥa tan và nhập vào Viên-Giác-Tánh tức Pháp-Thân.
Đó là giai đoạn bà c̣n ở tại quê nhà. Rồi bà Diệu-Hưng đến Mỹ đoàn tụ với gia đ́nh. Bà tiếp tục xưng niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, bà đi Chùa lễ Phật và làm các công đức khác them tám năm nữa, nhưng lúc nào ḷng cũng tin tưởng Phật và vui vẻ niệm Phật. Thật ra không ai dám nói bà Diệu-Hưng đạt đến qủa nào? Nhưng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 111, Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói: “Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu hoan hỷ thọ tŕ danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật hoặc một ngày hoặc bảy ngày, cho tới nhiều lần của bảy ngày, th́ sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả tư nghị.”
Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói rất rơ, chỉ cần thậm thâm tin hiểu và hoan hỷ thọ tŕ danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật một ngày thôi, hoặc bảy ngày, cho đến nhiều lần của bảy ngày sẽ đắc mười pháp quyết định, bất khả tư nghị là chẳng bàn căi.
Riêng bà Diệu-Hưng đă thậm thâm tin và hoan hỷ thọ tŕ danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật suốt 18 năm dài. Đúng ra phải nói bà niệm Phật 40 năm, tính từ lúc quy y Tam Bảo, Đại Bồ Tát nói: “Chỉ cần thậm thâm tin hiểu hoan hỷ thọ tŕ danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật một ngày th́ sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả tư nghị.”
Trong mười pháp quyết định này nghiệm ra đă đắc qủa Bồ Tát thứ 10, tức là Thập Trụ Bồ Tát hay ĐạI Địa, Pháp Vân Địa Bồ Tát, như là: Đời đời thọ sanh trong ḍng giống Như-Lai; tham dự những chúng hội đạo tràng của Như-Lai; ḥa hợp than và tâm vào trong Kim thân Phật; hóa sanh tự nơi hoa sen báu, cùng một chỗ ở với chư Phật và chư Thánh Chúng. Chúng tôi chỉ trích dẫn vài phần trong mười pháp quyết định của Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Người đắc được mười pháp quyết định khi lâm chung chắc chắn được Đức Phật A-Di-Đà cùng vô lượng Bồ Tát vây quanh an ủi tiếp dẫn.
Trường hợp của bà Diệu-Hưng, chúng tôi chỉ biết dựa vào kinh trích dẫn để khuyến khích mọi người tu niệm Phật, chứ không dám cả quyết bà đắc qủa nào. Bà Diệu-Hưng mất vào năm 78 tuổi. Trước khi ra đi bà đă chuẩn bị tất cả tang sự. Tất cả đồ liệm đem theo cho bà, bà tự lo sắm đầy đủ như quần áo liệm, mũ quan-âm kể cả chiếc mền đà-la-ni, bà cũng sắm sẵn từ hồi ở Việt Nam mà con cháu không hay biết. Bà học Phật pháp biết các phát đều là không, nên đối với sự sống chết bà chẳng hề e sợ. Cho nên sự ra đi của bà mới được tự tại.
Ngày Phật Đản 1999 bà vẫn c̣n làm bánh cúng Phật và c̣n vui cười dự “Ngày Cha Mẹ” do Hội Ái Hữu Gia-Long miền Đông tổ chức. Nhưng đến đầu tháng 6 th́ bà bắt đầu đau và bịnh phát ra nhanh chóng không thể ngờ. Dù đau lưng dữ dội nhưng không bao giờ bà rên xiết, trước tiên gia đ́nh gọi 911 đưa bà vào nhà thương Fairfax. Nơi đây nói là nhiễn trùng đường tiểu.
Khi về nhà, bịnh bà không thuyên giảm. Có người mách, nói là bịnh viện ở Maryland có bác sĩ chuyên khoa tài ba khuyên gia đ́nh nên đưa bà qua đó. Bà Diệu-Hưng ở tiểu bang Virginia, muốn vào bịnh viện Maryland phải có cách hợp lư và phải đến vào dịp bác sĩ tài ba kia đang làm việc. Mọi sự tính toán như ư, bà Diệu-Hưng được bác sĩ ấy khám và t́m ra ung thư bao tử. Bà nằm lại bịnh viện, bác sĩ định làm chemotherapy nhưng giờ chót hủy bỏ; v́ bịnh bà không thể cứu chữa.
Y khoa khó giải thích điều này, v́ b́nh thường người bị ung thư sau khi được phát hiện, c̣n có thời gian nhiều tháng đến nhiều năm để chữa trị. Nhưng bịnh của bà Diệu-Hưng, khi phát hiện đến chết chỉ trong một thời gian thật ngắn. Có phải do sức “định” của sự chuyên tâm niệm Phật của bà quá mạnh, lấn át sự đau đớn của ung thư? Nhiều người tu Niệm Phật, mỗi khi nghe tiếng niệm Phật th́ con người trở nên khỏe khoắn nhẹ nhàng. Như Sư Bà Đàm-Lựu, giữa lúc bà bịnh nguy kịch vậy mà nghe tiếng niệm Phật của qúi Sư th́ Sư Bà tỉnh táo ngay, kêu đệ tử đỡ Sư Bà dậy để Sư Bà đi đảnh lễ quí Sư.
Đại sư Hám-Sơn nói: “Nếu niệm Phật cho đến lúc làm chủ được phiền năo, th́ ngay trong mộng cũng làm chủ được. Nếu trong mộng tự làm chủ được th́ ngay trong lúc bịnh khổ cũng tự làm chủ được. Nếu lúc bịnh hoạn đau khổ mà tự chủ được, th́ lúc lâm chung tâm sáng suốt rơ ràng, bèn biết nơi sắp đến.”
Cho nên muốn hiểu sự chứng qủa của một người phải căn cứ vào cách hành tŕ của người ấy có chuyên tâm hay không. Một Phật tử Mỹ, bà Ananda Jenning, có nói: “Trong Phật Pháp trọng tu chứng, chứ không trọng kiến giải.” Kiến giải là hiểu biết rộng nhiều về giáo lư, chỉ tu trên lư thuyết, nói miệng tài mà thân và tâm th́ tu thật ít, kẻ viết bài này cũng là kiến giải.
Vào ngày 12-6-1999 bà Diệu-Hưng xuất viện. Đến ngày 20-6-1999 Hội Ái Hữu Gia-Long tổ chức lễ cầu an cho bà tại Tu Viện Pháp Vương với sự hiện diện hàng trăm Phật tử trong vùng. Biết rằng ngày chết không c̣n xa, nhưng bà không một chút lo sợ. Bà vui cười chào hỏi mọi người, thành thật cảm ơn tất cả và b́nh thản ra về sau buổi lễ.
Bà Diệu-Hưng có người con nuôi tên là Thiện Viên. Vị này là người có đạo tâm, anh đă phát tâm nhận mấy trăm ảnh tượng Tây Phương Tam Thánh phân phối cho Phật tử trong vùng thủ đô Hoa Kỳ, các tiểu bang lân cận và Canada. Anh đă ra công sang băng cassette Pháp Tu Quán Phật Tŕ Danh, cả ngàn cuốn đê biếu các nơi. Anh Thiện Viên đă biếu cho bà Diệu-Hưng một cuốn. Trong một cuộc điện đàm hỏi về trường hợp của bà Diệu-Hưng, anh thuật lại có đoạn nói: “Từ khi ở bịnh viện về bà nói với tôi rằng bà đă biết đường đi rồi.”
Câu nói này, theo chúng tôi, chứa đựng hai nghĩa:
1. Bà Diệu-Hưng biết đường đi về Tây Phương Cực-Lạc, do phương cách Niệm Phật Văng Sanh.
2. Bà có tiên triệu, biết trước sắp văng sanh.
Về tiên triệu, sách Liễu-Sanh-Thoát-Tử của cư sĩ Liêu-Địch-Nguyên, do thầy Thích-Quang-Phú dịch, có đoạn như sau:
Những tiên triệu trong khi lâm chung tùy theo mỗi người mà cảm thấy có khác nhau; nhưng không ngoài tịnh cảnh hiện ra trước mắt. Hạng thù thắng th́ thấy có y báo, chánh báo trang nghiêm đều đầy đủ. Hạng kém hơn chỉ thấy Phật và Bồ Tát. Hạng kém hơn nữa th́ thấy hoa sen. Nhưng những tiên triệu mà mọi người chung quanh cũng được cảm thấy; th́ những di tích văng sinh của các bậc Thánh-Hiền xưa nay ta có thể khảo cứu mà chia ra 10 món thoại ứng:
1. Nhất tâm bất loạn: Tâm niệm vào một cảnh.
2. Biết trước thời chết đă đến.
3. Tịnh niệm không mất.
4. Biết trước lo tắm rửa và thay quần áo
5. Tự ḿnh niệm Phật, niệm có tiếng hay niệm thầm.
6. Ngồi hoặc nằm ngay thẳng, xấp tay mà chết.
7. Có mùi lạ thơm khắp.
8. Có hào quang sáng soi vào thân thể.
9. Nhạc trời nổi giữa hư không.
10. Tự nói ra bài kệ để khuyên mọi người.
Sáng ngày 29-7-1999, bịnh t́nh bà trầm trọng. Bà vẫn sáng suốt, luôn luôn chấp tay niệm Phật. Bà đă viết thơ dặn ḍ khi bà chết phải đem đi thiêu. Khi nhặt tro phải lượm từ dưới chân, rồi dần lên đầu. Dường như bà biết trước bà sẽ để lại cái ǵ. Từ trước đến nay ít ai biết điều này. Bà dặn tro cốt để lại Chùa bốn mươi chín ngày, rồi sau đó đem rải ở đâu cũng được.
Bạn đạo đến hộ niệm đông đảo. Bà bảo mọi người đừng khóc. Bà nằm ngửa chấp tay niệm Phật và niệm đến khi không c̣n niệm ra tiếng. Lúc trút hơi thở cuối cùng bà vẫn c̣n chấp tay. Cả lúc bà không c̣n niệm ra tiếng mà người nhà tụng niệm sai bà cũng biết. Chứng tỏ bà hoàn toàn tỉnh táo và an nhiên tự tại ra đi.
Lúc 3 giờ 30 trưa thứ Năm, 19-7-1999, bà dứt hơi thở cuối cùng. Theo thân nhân, lúc tắt hơi cổ bà rướng lên, bỗng nhiên từ cổ bà bổng biến thành trắng như tuyết, trông bà sáng đẹp. Hơi ấm c̣n lưu lại nơi đầu và trán. Chúng tôi chưa từng chứng kiến cảnh một người vừa trút hơi thở cuốI cùng ra sao, nhứt là người đó được văng sanh. Được biết bà Kim Oanh, cựu giáo sư trường nữ trung học Gia-Long Sài G̣n, hiện diện từ lúc đầu đến cuối. Chúng tôi cố gắng điện thoại lên Virginia không gặp, sau cùng phải gọi về San Jose mới liên lạc được. Bà vui vẻ thuật lại tất cả.
Bà Kim Oanh nói: “Từ nhỏ đến lớn tôi chưa thấy cảnh người chết. Cụ Diệu-Hưng lúc chưa mất trên mặt có 4 vết ửng đỏ. Khi cụ tắt thở, sắc mặt liền thay đổi, gương mặt bỗng nhiên sáng đẹp hẳn lên, mấy vết ửng biến mất. Tôi vội kêu mấy cụ niệm Phật lớn lên.”
Sau đó Thầy Vân Đàm đến. Thầy rờ trán cụ, bảo “cụ ra đi tốt đẹp” và kế tiếp Thầy Trí-Tuệ đến. Lúc ra đi vĩnh viễn, gương mặt của bà Diệu-Hưng bỗng đổi sắc sáng đẹp giống y trường hợp của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết và hơi ấm trên trán lưu lại rất lâu.
Sách Liễu-Sanh-Thoát-Tử viết rơ: “Người được xuất thế th́ trên trán hơi ấm rất lâu, tức là triệu chứng sanh về Tây Phương vậy.”
Bà Diệu-Hưng may mắn được lưu lại nhà 7 tiếng đồng hồ sau khi mất và được sự trợ niệm đầy đủ, sau đó mới để cho nhà quàn đến nhận xác. Theo sách Liễu-Sanh-Thoát-Tử, để yên từ 7 đến 8 tiếng là tốt. Đối với người có triệu chứng văng sanh th́ thời gian này cũng đủ. Sách viết: Những hạng đă có sẵn tu theo Tịnh-Nghiệp th́ khi lâm chung họ liền đi đến chỗ họ muốn đến… Nhưng trong khoảng bốn mươi chín ngày, nếu ta biết v́ họ mà niệm Phật thế, th́ cũng có thể làm tăng them phẩm vị không đến nỗi uổng công.
Sau Lễ Trà Tỳ, vào 8 giờ tối, Thượng Tọa Thích-Vân-Đàm gọi điện thoại đến thân nhân bà Diệu-Hưng dặn phải liên lạc với nhà quàn v́ có thể có điều ǵ lạ. Hỏi điều ǵ lạ? Thầy trả lời có thể có Xá-Lợi lưu lại. Người nhà bà Diệu-Hưng không hiểu Xá-Lợi là ǵ cả; nhưng qua cách nói của Thầy Vân-Đàm th́ Xá-Lợi là cái ǵ qúi báu nhứt của đời một người tu hành.
Thượng Tọa Thích-Vân-Đàm dùng chữ “feeling” tức linh cảm để nói với gia đ́nh bà Diệu-Hưng. Dè dặt là căn bản khiêm nhượng của một bực tu hành. Dù khi Thầy đến th́ bà Diệu-Hưng đă trút hơi thở. Nhưng khi đến nơi Thầy rờ trán thấy c̣n hơi ấm và chứng kiến tận mắt vẻ mặt tự nhiên sáng đẹp hơn b́nh thường của bà Diệu-Hưng, là người tu hành đến phẩm vị Thượng Tọa, Thầy biết người chết văng sanh đến bực nào. Đó là người đă được Phật A-Di-Đà và Thánh Chúng trực tiếp đến đón, không c̣n phải trải qua Thân-Trung-Ấm. Chính v́ thế mà Thầy Vân-Đàm mới nói: “hàng triệu người mới có một người.”
Nhớ lời dặn của Thượng Tọa Vân-Đàm và cũng nhờ con cái bà Diệu-Hưng chẳng ngại việc làm phiền bà giám đốc nhà quàn mà được kết qủa tốt. V́ theo thường lệ, sau khi lửa thiêu tắt, th́ bộ phận tự động sẽ đưa tro xác vào một cái mâm; rồi chuyển qua máy nghiền. Dù có Xa-Lợi thân nhân cũng không biết được.
Rất tiếc là chúng tôi không liên lạc được với Thượng Tọa Vân-Đàm để bài này viết được đầy đủ hơn. Nhà Phật dạy cái ǵ cũng có duyên. Lúc chúng tôi gọi điện thoại cho Thầy, th́ Thầy đi Cali dự lễ Phật Đản. T́m được điện thoại của Chùa Bát-Nhă, nơi Thầy đến, th́ Thầy đi ra ngoài. Lúc Thầy trở lại Virginia, chúng tôi gọi nữa, Thầy lại đi vắng.
Trở lại cuộc điện đàm của gia đ́nh bà Diệu-Hưng với nhà quàn. Khi nghe gia đ́nh bà Diệu-Hưng nói có thể có điều lạ, bà Carmen, giám đốc nhà quàn không tin. Theo bà giám đốc với sức nóng của lửa với 2000 độ F th́ vật ǵ cũng bị cháy tiêu cả. Vả lại khi đốt tới độ nóng đó, th́ bên trong ḷ sẽ nổ tung tan nát cả. Thêm nữa, bà giám đốc nói, tự bà không quyết định được, mà chủ th́ không biết đang ở Texas hay California. Nhưng gia đ́nh vẫn kiên tŕ giữ lời yêu cầu của ḿnh. Bà giám đốc phải gọi qua Texas, rồi California để t́m chủ. Cuộc điện đàm diễn ra nhiều lần trong đêm. Nếu gia đ́nh không quyết tâm vượt qua khó khăn, th́ hang Phật tử chúng ta mất một dịp học hỏi qúi báu này. Cuối cùng bà giám đốc hứa sẽ gặp lại thân nhân sáng mai trước ḷ thiêu.
Sáng hôm sau cháu nội của bà Diệu-Hưng cùng vớI Bạch-Kim-Quy, đă có mặt trước ḷ thiêu trước tiên. Bạch-Kim-Quy là Phật tử của chùa Từ-Ân ở Canada. Anh biết rất nhiều về trường hợp Xá-Lợi của Thầy Thích-Minh-Đạt, đă nghe tường thuật: “Người bên ngoài nh́n qua tấm kiếng của ḷ thiêu ở Canada, thấy Thầy Thích-Minh-Đạt nằm ngửa hai tay mở rộng ra, trông thật siêu thoát.” Bây giờ anh có mặt ở đây và chứng kiến… điều xảo diệu tương tợ.
Rồi bà Carmen, giám đốc nhà quàn đến cùng với hai nhân viên canh ḷ thiêu. Sau này được biết bà Carmen đă có chín năm kinh nghiệm trong nghề. Bà bảo Lư-Tường-Hiệp, cháu nội bà Diệu-Hưng, và Bạch-Kim-Quy ở bên ngoài chờ bà.
Trước đó nghe nói có Xá-Lợi, bà bảo mấy người khùng hết. Bây giờ, sau một phút vào bên trong, bà trở ra với nét mặt kinh ngạc, hoảng hốt nói: “cái xác vẫn c̣n nguyên.” Hai người canh ḷ, có người làm nghề này năm năm, người mười năm, đều bảo chưa từng thấy trường hợp này. Lúc đó cửa ḷ bỏ ngỏ, Lư-Tường-Hiệp và Bạch-Kim-Quy liền bước vô xem. Bạch-Kim-Quy tả lại với chúng tôi qua điện đàm: “lúc đó lửa c̣n cháy, bà Diệu Hưng nằm trên bàn, vẫn c̣n nguyên dáng dấp của một người.”
Đúng! Bà giám đốc nhà quàn không thể tưởng tượng được, v́ từ trước đến nay các vụ thiêu tương tợ, xác người đă tan tác trước sức nóng ră rời ra hết, đâu c̣n dáng dấp như vậy. Đây là nhục thân Kết! Người tu đạt đạo mới được như vậy. Xác thân trở thành thân bất hoại để lâu không hôi thối. Nếu chết trong tư thế ngồi kiết già th́ giống như quí vị Thiền Sư đắc đạo ngồi mà tịch.
Thân nhân của bà Diệu-Hưng được báo tin lập tức đến. Thầy Vân-Đàm và Thầy Trí-Tuệ cũng hiện diện. Thầy Vân-Đàm phỏng vấn bà giám đốc và xin đừng để máy tự động nghiền, để thân nhân t́m vật lạ. Bà giám đốc nói: “đây là một phép lạ”, nên bà sẵn sàng chiều ư, v́ theo phép vệ sinh không thể để người ngoài vào ḷ thiêu. Thế rồi thân nhân t́m được hoa Xá-Lợi và xương Xá-Lợi trước sự chứng kiến của các Thầy.
Lúc tẩm liệm cho bà Diệu-Hưng, thân nhân bỏ quên chiếc mền Đà-La-Ni; bây giờ mền này được dung đựng tro xác để đem về Chùa t́m kiếm tiếp. Bài này không mục đích t́m Xá-Lợi mà muốn nói lên sự chứng đắc của một người tu Phật, một Bồ-Tát đă chứng đắc qua “Pháp môn niệm Phật thành Phật.” V́ là phàm phu chúng sanh thiếu kinh nghiệm, chúng tôi không dám nói bà Diệu-Hưng chứng đắc tới qủa vị nào. Nhưng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói: “Niệm Phật là pháp môn đệ nhứt, sử dụng danh hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến chuyển hóa, hư dối trở nên Viên-Giác-Tánh.”
Bà Diệu Hưng đă sử dụng danh hiệu Phật để thâm nhập Phật Tánh, chuyển thân huyễn hóa không thật của bà thành Pháp Thân. Đó là bà đắc đạo vậy.
Nhân đây, xin kể thêm với qúi vị về chữ “duyên” của nhà Phật. Vào đầu năm 1999, bà Diệu-Hưng có ư định về Việt Nam thăm con gái một lần. Cô Kim Hà, con dâu của bà liền đi mua vé cho chuyến bay 30-5-1999. Nhưng sau đó, bất ngờ cô con dâu nghe bà thố lộ “lúc này sao thấy trong người không được khỏe.” Từ lâu bà Diệu-Hưng không hay than thở về sức khỏe. Nay nghe nói cô con dâu cảm thấy e ngại cho Mẹ chồng, nên vào giờ chót cô đề nghị bà tạm bỏ chuyến về nước. Bà Diệu-Hưng vui vẻ đồng ư ngay. Nhưng người con trai duy nhứt mà bà đă hy sinh ở vậy nuôi, anh Lư-Trường-Xuân, không muốn Mẹ buồn, bảo vợ nên để Mẹ về Việt Nam. Cô Kim Hà trả lời, Mẹ nói trong người không khỏe, nếu Mẹ về bển, lỡ có việc ǵ làm sao lo cho Mẹ được? Nhờ Mẹ chồng và nàng dâu rất thân thiết, nên cô Kim-Hà mới dám dùng t́nh thương để ngăn cản.
Đó là cái “duyên thứ nhứt” của bà Mẹ chồng hiền từ và nàng dâu hiếu hạnh. Nhờ vậy mà bà Diệu-Hưng chết tại quê hương thứ hai và để lại Xá-Lợi tại đây. Bằng ngược lại nếu bà về Việt Nam và chết trên quê hương, dù xác bà được thiêu, nhưng có thể Xá-Lợi đă bị hủy hoại.
Đă có cái “duyên thứ nhứt”, th́ phải có cái thứ nh́. Lúc bà tự tại ra đi, có tiên triệu cho thấy bà đă văng sanh. Do đó Thầy Vân-Đàm nhắc nhở thân nhân bà nên yêu cầu nhà quàn cho được chứng kiến lúc lửa vừa tắt. Đó là cái “duyên thứ nh́” của bà Diệu-Hưng đối với Thầy Vân-Đàm cùng Tu Viện Pháp Vương và Phật tử vùng Thủ Đô Hoa Kỳ.
Cho nên nhà Phật nói tất cả đều do “duyên”. Không ai muốn mà có được

Trích trong sách “Những Chuyện Văng Sanh Lưu Xá Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.

 

                       

 
Hosted by www.Geocities.ws

1