Trang
Chủ
Niệm
Phật Có 10 Điều Lợi Ích Lớn
Những Chuyện Niệm Phật Văng Sanh Lưu Xá
Lợi
Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung
Các
Kinh, Sách Phật Giáo
Thuyết
Pháp - Video
Thuyết
Pháp - Audio
Các
Trang Web về Phật Giáo
Để thỉnh các dĩa Video và
Audio miễn phí - xin gởi email về
[email protected]
|
|
Nam Mô
A Di Đà Phật |
|
|
|
|
|
Tứ Hoằng Thệ Nguyện
Chúng Sanh Vô Biên, Thệ
Nguyện Độ. (1 lạy)
Phiền Năo Vô Tận,
Thệ Nguyện Đoạn. (1 lạy)
Pháp Môn Vô Lượng, Thệ
Nguyện Học. (1 lạy) Phật
Đạo Vô Thượng, Thệ Nguyện Thành. (1 lạy) |
|
|
|
|
|
XÁ-LỢI
của NAM CƯ SĨ
CHÚC-QÚY LƯ-THIÊN-PHÚ
Văng sanh ngày 16-5-2000
Như đă nói ở bài trước, sau khi chúng
tôi hoàn tất phần phụ lục “Những
Chuyện Văng Sanh Lưu Xá-Lợi” này th́
được tin tại Sacramento có cụ bà
Quảng-Khánh vừa văng sanh lưu Xá-Lợi.
Thế là chúng tôi phải tiếp tục t́m tài
liệu viết nữa. Kế đến hôm sau
lại được tin tại Chicago lại có
thêm một cư sĩ vừa văng sanh, cũng có
Xá-Lợi.
Một vị Tổ Tịnh-Độ Tông nói,
thời mạt pháp tín tâm của nam cư sĩ
không bằng nữ cư sĩ. Nhưng lần này
không phải nữ cư sĩ. Tin tức đầu
tiên, Xá-Lợi của vị nam cư sĩ đang
để tại Chùa Quang-Minh, thành phố
Chicago, do Đại Đức Thích-Minh-Chí trụ tŕ.
Thầy Minh-Chí là đệ tử của Ḥa Thượng
Thích-Đức-Niệm.
Chúng tôi liền điện thoại cho Đại
Đức Minh-Chí. Nghe chúng tôi hỏi thăm
về Xá-Lợi, Thầy Minh-Chí vui vẻ nói
ngay: “Cả gia đ́nh người quá cố
đang có mặt tại chùa và đang t́m
kiếm thêm Xá-Lợi trong một phần tro
cốt c̣n lại.”
Nhân và Duyên của nhà Phật
Chúng tôi phải mất hai tuần lễ để
điện thoại qua lại mới thu thập
đủ tài liệu để cống hiến
cho qúi vị. Qua các bài viết về những
vị lâm chung lưu Xá-Lợi, chúng tôi học
được chút ít kinh nghiệm, làm sao
biết rơ một người chứng đắc
pháp môn Niệm Phật Ba-La-Mật khi lâm chung
được văng sanh? Văng sanh như thế nào
có được Xá-Lợi?
Thường thường một người văng
sanh đều có những “tiên triệu”
tức là điềm báo trước. Như bà
Diệu-Âm, bà Diệu-Hưng, cụ bà
Quảng-Khánh đều có điểm đặc
biệt. Vị nam cư sĩ ở Chicago, khi lâm
chung hỏa táng t́m được Xá-Lợi, như
vậy rơ ràng ông đă văng sanh, song tài liệu
được cung cấp không thấy có tiên
triệu.
Thật vất vả cho chúng tôi. Chẳng
những không thấy tiên triệu mà cũng
chẳng thấy có tường triệu tức
là điềm lành khi lâm chung. Chúng tôi bỏ
cả hai ngày để đọc tài liệu và
phân tích. Chúng tôi nghĩ, chắc chắn
phải có tiên triệu lẫn tường
triệu. Có lẽ thân nhân của người
quá cố bỏ sót chi tiết.
Như các lần trước, công tŕnh của
chúng tôi là phải t́m hiểu lại từ
đầu, từ khi vị cư sĩ ấy qui
y rồi hành tŕ pháp môn Niệm Phật như
thế nào? Từ đó gợi ư thân nhân
rồi phăng lần ra. Chúng tôi đang sưu
giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Đây là
một tôn Kinh độc đáo. Nếu dựa
vào bản văn của Kinh, dẫn chứng
lần lần sẽ thấy hiểu vị
ấy tu tới đâu, đạt được
qủa vị nào của các qủa vị Bồ
Tát? Đặc biệt Kinh này, ngoài Đức
Phật Thích-Ca-Mâu-Ni giảng giải, c̣n có hai
vị Bồ Tát Phổ-Hiền và Quán-Thế-Âm
dạy pháp môn niệm Phật Ba-La-Mật.
Trước tiên hăy t́m hiểu về vị nam
cư sĩ. Ông tên là Lư-Nhiên-Phú, người
Việt gốc Hoa, lúc măn phần ông hưởng
thọ 71 tuổi. Bà vợ tên Diệu-Thiện.
Hai ông bà có 4 trai và 4 gái, di dân qua Mỹ vào năm
1991. Năm 1999, Ông Nhiên-Phú qui y với Thượng
Tọa Thích-Thanh-An tại chùa Phật-Bảo,
được đặt tên là Chúc-Qúy.
Chúng tôi từng nói, cái tên lắm khi rất
ảnh hưởng đến tinh thần hay
vật chất và tương lai của một
người. Chúc-Qúy tức là chúc cho được
điều lành, điều qúy. Nhưng pháp danh
này nghe chẳng có chút đạo vị nào
cả. Thiếu ǵ pháp danh nghe rất kêu,
tại sao Thượng Tọa Thanh-An lại nh́n
con người ông Lư-Nhiên-Phú mà đặt
cho pháp danh Chúc-Quư? Phải chăng đây là cái
tiên triệu đầu tiên của ông Chúc-Qúy?
Tại sao chúng tôi nêu ra điều này? V́ kinh nói,
tất cả chúng sanh đều có nghiệp qúa
khứ. Nếu một người có nghiệp
quá khứ tốt, từng cúng dường Tam-Bảo
trong tiền kiếp, hiện đời ăn
hiền ở lành, th́ đi tới đâu,
ở đâu, cũng được gặp
thầy giỏi bạn hiền, gặp được
nhiều may mắn. Phật pháp nhiệm mầu
là ở chỗ đó, có những duyên
đưa đến những điều tốt
đẹp, hay lạ cho chúng sanh đó mà họ
không hề hay biết. Một pháp danh được
một vị Thầy đặt cho, không
phải vô cớ mà ông đặt ra. Có thể
do một sự mầu nhiệm nào đó
khiến tâm ông nghĩ ra đặt tên cho
một người, hoặc vị Thầy nh́n vào
sắc diện tánh t́nh mà đặt cho pháp danh,
hoặc theo hệ thống truyền thừa mà
đặt cho pháp danh. Dù cho là điều ǵ, căn
bản vẫn do nghiệp qúa khứ của
đương sự mà được cái pháp
danh nói trước tương lai cuộc đời
tu hành của người ấy.
Để hiểu rơ điều ḿnh suy luận, chúng
tôi t́m cách nói chuyện với Thượng
Tọa Thích-Thanh-An. Qua 3 lần điện
thoại chúng tôi mới được gặp,
đúng lúc Thượng Tọa từ Canada
trở về, Thượng Tọa nói:
“Thầy không ngạc nhiên khi được
anh Minh-Hiền báo tin, ông Chúc-Qúy lâm chung lưu
lại Xá-Lợi. V́ ông là người chất
phác, mộc mạc, tu hành thật tinh tấn.
Hồi c̣n ở Việt Nam ông đă qui y
một lần với pháp danh Văn-Tín, do
một vị sư Tàu đặt cho. Tín tức
là tín tâm. Tên thật ông là Lư-Nhiên-Phú
tức là Phú Qúy. Đúng, ông là người có tín
tâm. Khi qua Mỹ, trước khi qui y với
Thầy, ông đă tu nhứt tâm niệm Phật
và suốt ngày ông chỉ nhớ Phật,
chứ không nhớ ǵ khác. Mỗi ngày ông
niệm Phật sáu tiếng đồng hồ,
lần chuỗi 300 xâu. Do đó Thầy đặt
cho ông pháp danh Chúc-Qúy. Sau khi qui y, ông lạy
Thầy ba lạy, nói rằng: “Con phát tâm
gặp Sư Phụ qúa trễ.” Thầy đáp:
“không trễ đâu. Chỉ cần con gắng
tu tập là được. Mê th́ bao lâu cũng
mê, c̣n ngộ th́ ngộ cấp kỳ.” Ông Chúc-Qúy
mất sau hơn sáu tháng qui y.”
Qúi vị hăy suy nghiệm tại sao Thượng
Tọa Thích-Thanh-An lại đặt pháp danh Chúc-Qúy.
Chúng tôi lại thắc mắc, ông Chúc-Qúy qui y
tại chùa Phật-Bảo. Vậy tại sao khi
lâm chung Xá-Lợi của ông lại đem
về chua Quang-Minh? Nhà Phật nói cái ǵ cũng
có nhân duyên. Vậy ông Chúc-Qúy có cái duyên ǵ
với Thầy Minh-Chí?
Chúng tôi đem điều thắc mắc
hỏi bà Diệu-Thiện. Bà cho biết: chùa
Phật-Bảo do Phật tử đóng góp
tạo nên. Chùa không có sư trụ tŕ. Thượng
Tọa Thanh-An trụ tŕ chùa Tường-An
tại Oakland, California. Thầy được
mời đến Chicago, lănh đạo tinh
thần chùa Phật-Bảo, giảng pháp và làm
lễ qui y cho Phật tử. Trong số Phật
tử qui y với Thầy có ông Chúc-Qúy. V́ chùa
không có Sư nên gia đ́nh ông Chúc Qúy phải
đến chùa Quang-Minh để nghe giảng pháp
và dự các buổi Bát-Quan-Trai. Ông Chúc-Qúy
kết duyên với Đại Đức Thích-Minh-Chí
và chùa Quang-Minh từ đó. Thầy Minh-Chí tuy c̣n
trẻ mà nhiều đạo hạnh nên
Phật tử đều mến Thầy. Tuy nhiên,
hang tuần gia đ́nh ông Chúc-Qúy vẫn về
chùa Phật-Bảo để lạy Phật và
làm công qủa. Khi ông Chúc-Qúy mất
đương nhiên phải nhờ Thầy
Minh-Chí tụng kinh, làm lễ và bài vị
cần phải gởi ở chùa Quang-Minh để
nhờ các Thầy tŕ tụng kinh cầu siêu.
Vậy là ông Chúc-Qúy có cái nhân ở chùa
Phật-Bảo, mà duyên th́ ở chùa Quang-Minh. V́
thế mà cả hai chùa đều được
thân nhân ông Chúc-Qúy kính gởi Xá-Lợi. Tuy nhiên,
gia đ́nh ông Chúc-Qúy không quên ơn của Thượng
Tọa Thanh-An và chùa An-Tường.
Ông Chúc-Qúy tu ra sao mà được Xá-Lợi?
Sau khi ông Chúc-Qúy lâm chung, gia đ́nh ông làm
lễ hỏa táng t́m thấy có Xá-Lợi, đó
là chứng tỏ ông được văng sanh. Nhưng,
xin nhớ kỹ điều này, không phải
tất cả mọi người văng sanh đều
có Xá-Lợi. Trước đây, cũng có
nhiều người được văng sanh, nhưng
đâu nghe ai nói các vị ấy có Xá-Lợi.
Vậy là, văng sanh cũng có nhiều phẩm
cấp, người tu tinh tấn hành tŕ đúng
theo lời kinh Phật dạy, th́ được
phẩm cấp cao. C̣n về Xá-Lợi, chúng tôi
phân vân tự hỏi, phải chăng đức
Phật Thích-Ca và Phật A-Di-Đà đă dùng
thần lực ban ơn đặc biệt cho chúng
sanh thời mạc pháp này mà trong ṿng chỉ có
mấy năm đă có nhiều vị tu pháp môn
Niệm Phật lại có Xá-Lợi? Dù rằng
chúng tôi vẫn biết Xá-Lợi có được,
hành giả phải trải qua đại định,
tức nhập vào Tam-Muội, th́ lâu ngày thân tâm
mới kết tinh được Xá-Lợi.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phẩm
Thứ Hai, trang 29, Đức Phật nói: “…Nếu
có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh
hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, th́ uy lực
bất khả tư nghị của danh hiệu
khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh
ấy không hề hay biết, tự nhiên
chứng nhập Sơ-Phần-Pháp-Thân, âm
thầm ứng hợp Bi-Trí-Trang-Nghiêm của chư
Phật.”
Xin qúi vị lưu ư. Đức Phật nói, khi
một chúng sanh chí thành xưng niệm danh
hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, do danh hiệu
của Phật A-Di-Đà có một uy lực mà phàm
phu chúng ta không thể bàn, nói đúng hết
được; uy lực của danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật
được thanh tịnh, mà chúng sanh ấy không
hề hay biết.
Chữ “Thanh-Tịnh” chứa đựng các
nghĩa, tâm được định-v́ người
tu mà tâm không thanh-tịnh th́ không được
định-và tâm sạch phiền năo, dứt
trừ các nghiệp.
Đức Phật nói: “Chúng sanh nào chí thành -
tức là có nhứt tâm – xưng niệm danh
hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật th́ tùy uy lực
bất khả tư nghị của danh hiệu
khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh
ấy không hề hay biết.”
Như ông Chúc-Qúy, ông chí thành niệm Phật
khiến cho Tâm ông thanh tịnh mà ông không
hề hay biết. Ông không hay biết th́ làm sao
thân nhân ông hay biết được. Tuy nhiên,
nếu là người ngoài tinh mắt, để
ư nh́n ông sẽ thấy sự thay đổi
trong thân và tâm ông. Như con người trở
nên nhu ḥa, nhẫn nhục, da mặt đổi
sáng, dáng đi khoan thai, ai gặp cũng thấy
có cảm t́nh… Điều này tự nhiên sẽ
lộ ra cho qúi vị thấy ở các phần
sau mà chúng tôi không cần nói ra.
Đức Phật nói thêm: “…Tâm thể thanh
tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết,
tự nhiên chứng Sơ-Phần-Pháp-Thân, âm
thầm ứng hợp Bi-Trí-Trang-Nghiêm của chư
Phật.”
Như nói về ông Chúc-Qúy: “Nhờ chí thành
niệm Phật, Tâm Thể ông được
thanh tịnh mà ông không hề hay biết, và
tự nhiên ông chứng được Sơ-Phần-Pháp-Thân
mà ông cũng không hề hay biết.”
Tu niệm Phật tức là tu Đại Thừa,
Bồ Tát đạo. Cho nên người
chứng được Sơ-Phần-Pháp-Thân
tức là chứng được Sơ-Địa-Bồ-Tát
hay gọi là Hoan-Hỷ-Địa Bồ Tát.
Ai không nghiên cứu Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật không thấy được chỗ này.
Theo nhà Thiền, đến chỗ này là lúc “Tâm
vô Nhứt vật”, là lúc trong tâm thanh tịnh
không có một vật ǵ, nghiệp thức cũng
không có, sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp cũng
không có. Nói theo Bát-Nhă Tâm Kinh là không có sáu
trần; không có nhăn giới, không có cả ư
thức giới, tức là sáu căn; v́ khi đó
Bồ Tát Sơ-Phát-Tâm, tức hành giả
Tu-Niệm-Phật, không c̣n có tâm phân biệt
nữa.
Bà Diệu-Thiện nói với chúng tôi rằng:
“lúc ông Chúc-Qúy niệm Phật, nhiều khi ai
hỏi ǵ ông đều như chẳng nghe,
chẳng hiểu, chẳng thấy ǵ cả.” Chúng
tôi giải thích với bà, đấy chính là lúc
Tâm Thể chồng bà thanh tịnh, tức
được định. Lâu ngày cái định
ấy sẽ kết tinh thành những vật
trong sáng cứng chắc như kim cương.
Cháu Thanh-Trí kể: “Nhiều khi ba con đang
ngồi niệm Phật, hoặc xem tivi với
những show thú của Discovery mà ba con thích -
mắt xem mà miệng vẫn niệm Phật –
bỗng nhiên ba con rơi vào t́nh trạng
nhập định (không phải hôn trầm hay
vô kư, lời người sưu giải) một
thời gian sau th́ tỉnh lại”
Sau khi lâm chung, làm lễ hỏa tang ông Chúc-Qúy lưu
lại nhiều Xá-Lợi, chứng tỏ ông
được văng sanh, nhưng không phải
tất cả những ai văng sanh cũng đều
có Xá-Lợi. Trước đây cũng có
nhiều người văng sanh, nhưng chúng ta
đâu nghe nói họ có Xá-Lợi.
Chúng tôi đang tự hỏi, không biết có
phải Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni và A-Di-Đà
đă dùng thần lực đặc biệt ban
hồng ơn cho chúng sanh thời mạc pháp chăng,
mà sao trong ṿng năm có tới sáu vị Tăng
Ni và cư sĩ văng sanh có Xá-Lợi? Dù
rằng chúng tôi vẫn biết người có Xá-Lợi
đều trải qua giai đoạn niệm
Phật khiến cho Tâm Thể được
thanh tịnh tức được định, lâu
ngày kết tinh thành Xá-Lợi.
Hiện tượng ǵ chứng minh
Ông Chúc-Qúy được văng sanh?
Ông Chúc-Qúy là người nghèo khổ ở bên
Tàu. Từ 17 tuổi ông qua Việt Nam sanh
sống, rồi lập gia đ́nh định cư
tại Sài G̣n. V́ nhà nghèo ông không được
ăn học, nhưng tâm ông luôn luôn lương
thiện. Vợ chồng ông ăn hiền ở
lành nên có phước đức, sanh các con
hiền có tâm hướng Phật. Hồi c̣n
ở Việt Nam ông cũng đi chùa, nhưng không
thường xuyên. Trái lại, các con ông có người
đă qui y Tam-Bảo. Nhờ có phước
đức, gia đ́nh ông qua Mỹ con cái đều
có việc làm tốt, tạo được nhà
cửa sống hạnh phúc.
Đến Mỹ các con ông thường xuyên đi
chùa học kinh, c̣n ông muốn đi chùa nhưng
ngại ḿnh dốt tiếng Việt. Vợ con ông
động viên khuyến khích ông đi chùa.
Nhờ vậy mà ông có được pháp danh
Chúc-Qúy.
Từ khi đi chùa, nghe giảng pháp, ông tu tinh
tấn hơn nhiều người. Bất
kể mọi khó khăn của thời tiết;
dù mưa gió, dù trời lạnh đến đóng
băng, ông Chúc-Qúy cũng đến chùa
Quang-Minh mỗi sáng Chủ Nhật để
dự khóa Hồng Danh Sám-Hối, và mỗi tháng
thọ Bát Quan Trai ở chùa Quang-Minh hay
Phật-Bảo.
Nhưng, bấy nhiêu đó không đủ
chứng minh ông Chúc-Qúy được văng sanh và
có được Xá-Lợi; v́ nhiều người
khác cũng thường đi chùa đều
đặn đâu có kém ǵ ông Chúc-Qúy. Tại
sao họ chẳng được? có nghĩa là
ông Chúc-Qúy phải tinh tấn hơn điều
nói trên.
Thân nhân ông Chúc-Qúy không nhớ được
điều chúng tôi muốn biết. V́ vậy mà
chúng tôi phải bỏ công gọi điện
thoại nhiều lần, nói chuyện nhiều
người trong gia đ́nh ông như bà
Diệu-Thiện, cháu Huệ-An con gái thứ năm
và cháu Thanh-Trí con trai út. Chúng tôi khuyến khích
họ ôn lại cách hành tŕ niệm Phật
của ông Chúc-Qúy. Qua nhiều ngày, chúng tôi ghi
nhận được nhiều điều
hữu ích. Sau cùng, được nói chuyện
với Thượng Tọa Thích-Thanh-An, chúng tôi
đúc kết được hạnh tu của
ông Chúc-Qúy như sau:
1. Ông nhứt tâm và chí thành niệm Phật
cầu văng sanh.
2. Mỗi ngày ông niệm Phật 6 tiếng đồng
hồ, cứ 2 tiếng ông niệm được
100 xâu chuỗi và giữ đều đặn
như vậy. Ngoài ra khi nhổ cỏ, trồng
trọt, tưới cây ông cũng không ngừng
niệm Phật.
3. Lúc nào trong tâm ông cũng đều tưởng
nhớ đến Phật và từng thấy
Phật.
Cũng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật (Phẩm
Thứ Hai, trang 30, bản in của Phật
Học Viện Quốc Tế - PHVQT.) Chúng tôi nói
PHVQT v́ chùa Quang-Minh có ấn bản này, Đức
Phật nói:
“Muốn văng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng
danh hiệu Phật A-Di-Đà là đủ. V́ danh
hiệu chính là biểu tướng của Pháp
Thân, cho nên niệm danh hiệu tức là
niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người
niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất
cứ môn tu nào nữa. V́ ngay nơi danh hiệu
Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật chứa được vô lượng
vô biên công đức, vô lượng vô biên
quang minh, tướng hảo, uy lực… không
thể nghĩ bàn.”
Như đă nói, nhờ xưng niệm danh
hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật không ngừng, tâm
thể ông Chúc-Qúy được thanh tịnh. Và
ông chỉ tinh chuyên niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật
mà ông được văng sanh.
Nhưng có những điềm ǵ, hiện tượng
ǵ, chứng minh rằng ông Chúc-Qúy thật
sự văng sanh? Khi tiếp xúc với bà
Diệu-Thiện qua điện thoại, chúng tôi
nghe bà nhắc đến ông Minh-Hiền mấy
lần, cháu Huệ-An cũng nói với chúng tôi:
Trước khi đưa ba con đi hỏa táng,
bác Minh-Hiền có kêu con ra ngoài nói: “có thể
ba con có Xá-Lợi. Khi lấy tro cốt con
nhớ t́m Xá-Lợi.”
Chúng tôi liền điện thoại hỏi ông
Minh-Hiền: “Xin ông vui ḷng cho biết, dựa vào
điềm nào mà tự nhiên ông cảm thấy
ông Chúc-Qúy có thể để lại Xá-Lợi?”
Không một chút nghĩ ngợi, ông Minh-Hiền
nói: “Chúng tôi đă quen biết nhau nhiều năm
rồi. Tôi hiểu về con người ông Chúc-Qúy.
Tuy ông kém chữ nghĩa, tánh t́nh mộc
mạc, nhưng ông là người nhứt tâm và
quyết tâm cầu nguyện văng sanh. Ông thường
lui tới chùa Phật-Bảo, tâm t́nh với tôi
và hỏi han tu cách nào mà có thể văng sanh? Tôi
đă gặp rất nhiều người cùng tu
niệm Phật, họ rất rành kinh điển
nói năng lưu loát, nhưng tôi biết
những người ấy chỉ giỏi lư
thuyết chứ không thực sự tu hành. Nhà
Phật, tu là phải thực chứng. Nói ngoài
miệng chỉ là kiến giải. C̣n ông Chúc-Qúy,
ông không hiểu nhiều về Phật Pháp, song
ông có quyết tâm, với ḷng tin tha thiết. Điều
nào ông không biết là ông đem ra hỏi ngay,
không sợ xấu hổ. Do đó, với
hạnh tu của ông, tôi tin tưởng ông
sẽ được văng sanh.”
Tôi c̣n nhớ có lần ông hỏi tôi:
“Niệm Phật cách nào mới thực sự
văng sanh, hầu thóat khỏi luân hồi sanh
tử?”
Lần ấy tôi đáp: “Niệm Phật
phải tha thiết, phải quên tất cả
dục lạc tầm thường hàng ngày, như
cảnh t́nh vợ con hăy ráng bỏ, đừng
để bị ràng buộc, phải sửa
đổi tánh cho nhu ḥa, hiền hậu. Th́ ngày
ra đi chắc chắn chúng ta sẽ được
như ư.”
Ông Chúc-Qúy trầm ngâm giây lâu rồi nói: “Tôi
sẽ cố gắng thực hiện để
được văng sanh.”
Chúng tôi xin tạm gác qua lời nói của ông
Minh-Hiền để them vào một điều.
Khi nói chuyện với chúng tôi, cháu Thanh-Trí, con
trai út của ông Chúc-Qúy có nói: “Bác ơi,
hồi trước Ba con tánh nóng dữ lắm.
Trong nhà ai làm điều ǵ không vừa ḷng ông,
th́ ông la hét ngay. Nhưng từ ngày tu tới bây
giờ, Ba con hiền lắm, hiền như ông
Phật. Trước kia, quen theo sinh hoạt gia
đ́nh, khi ăn cơm th́ phải cả nhà cùng
ngồi vào bàn ăn, nhưng sau này Ba con như
dứt bỏ mọi thông lệ. Ông thường
lặng lẽ ngồi riêng một ḿnh, khi ăn
ông cũng ăn riêng. Vợ con làm ǵ ông cũng
không để tâm đến.”
Đó để chứng minh ông Chúc-Qúy tập xa
rời dục lạc và cắt đứt
lần t́nh cảm gia đ́nh. Bây giờ xin
trở lại vớI ông Minh-Hiền. Tiếp
tục câu chuyện, ông Minh-Hiền nói: Cháu Phước-Lạc,
đứa con trai áp út của ông Chúc-Qúy nói
với tôi: “Hồi xưa tánh Ba con khó lắm,
nhưng sau này trong nhà ai muốn làm ǵ th́ làm,
ông không màng tới. Ba con tập theo Bát-Nhă-Tâm-Kinh
“Tâm vô quái ngại”. Cả đến một
vật cứng rớt xuống chân Ba con, mà Ba
con cũng không phản ứng kêu đau.”
Ông Minh-Hiền nói tiếp: “Mỗi lần
gặp tôi là ông gợi chuyện về niệm
Phật văng sanh. Năm trước, ông nói ông
niệm Phật mà sao c̣n nhiều vọng tưởng
quá. Tôi liền chỉ cho ông cách niệm
Phật công cứ; nghĩa là tự qui định
mỗi ngày ḿnh sẽ phải niệm bao nhiêu
lần danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật. Rồi
khi niệm ḿnh ghi sổ để biết
mỗi ngày ḿnh niệm có đúng số không?
Như vậy ḿnh sẽ diệt được
vọng tưởng và không lơ là trong
việc niệm Phật.”
Có lẽ do chỗ này mà cháu Thanh-Trí nói với
chúng tôi – Bác ơi, Ba con niệm Phật
lần chuỗi liền tay, Ba con niệm lẹ
lắm – Bây giờ chúng tôi mới biết rơ,
ông Chúc-Qúy niệm Phật công cứ, ông tính
số niệm nên niệm lẹ.
Những điều báo trước văng sanh
Xin nói về tiên triệu tức điềm báo
trước của ông Chúc-Qúy. Ông Minh-Hiền
kể tiếp: “ông Chúc-Qúy thường đến
chùa giúp trồng cây kiểng. Bỗng một hôm
ông nói với tôi - Chắc tôi không c̣n dịp
trồng cây cho chùa nữa. - Tôi hỏi tại
sao? Ông b́nh thản trả lời - Tự nhiên tôi
có linh cảm vậy – bây giờ nghĩ
lại, rơ ràng ông Chúc-Qúy đă bảo trước
ông sắp ra đi.”
Cháu Thanh-Trí nói với chúng tôi: “Ba cháu rất
ghét chụp h́nh. Vậy mà lúc sắp mất
ổng đ̣i chụp h́nh. Nhờ vậy mà bây
giờ có h́nh để thờ.”
Vài tuần trước ngày Ba con mất, sau
buổi niệm Phật, Ba con nói: “Ngộ
thấy Phật A-Di-Đà.” Trước đây Ba
con niệm Phật đều tưởng
nhớ Phật A-Di-Đà. Nhiều lần đến
chùa thọ Bát Quan Trai, ba con nói, thấy tượng
Phật ở nhà đẹp hơn những nơi
khác (có nghĩa là đi đâu ông Chúc-Qúy đều
nhớ ông Phật ở nhà.)
Cháu Huệ-An kể: “cái đêm rạng ngày Ba
con mất, không hiểu sao con không ngủ
được. Vào 3 giờ khuya Ba con thức
dậy nấu cháo, rồi tụng kinh A-Di-Đà và
Bát-Nhă-Tâm-Kinh bằng tiếng Tàu, Ba con biết
đánh chuông gơ mơ. Sáng hôm đó con nghe Ba con
đánh chuông tụng kinh đến hai lần.
Thật là lạ!"
Bây giờ nói chuyện ông Chúc-Qúy thật
sự văng sanh. Trong Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật tức là Kinh Niệm Phật Thành
Phật, Phẩm Thứ Nhứt, trang 15, Đức
Phật nói: “Mỗi khi sắp lâm chung th́ các
loại nghiệp lành dữ trong một đời
hiển hiện rơ ràng. Chúng sanh nào sống
thuần bằng tưởng (như ông Chúc-Qúy
lúc nào cũng tưởng nhớ đến
Phật) th́ bay lên hóa sanh nơi các cơi Trời.
Nếu trong sự thuần tưởng, lại
gồm cả phước huệ (tức phước
đức và trí huệ) và tịnh nguyện th́
tự nhiên tâm trí khai mở mà đươạc
thấy mười phương chư Phật, tùy
theo nguyện lực của ḿnh mà sanh về
Tịnh-Độ.”
Bây giờ thử phân tách về ông Chúc-Qúy.
Tất cả những gia đ́nh Việt Nam qua
được xứ Mỹ này định cư,
đều đáng được gọi là có
phước đức. Kinh nói: “Nếu trong
sự thuần tưởng lại gồm cả
Phước đức, Trí huệ và Tịnh
nguyện th́ tự nhiên tâm trí khai mở mà
được thấy Phật.” V́ thuần tưởng
th́ Tâm thể nhẹ nhàng khi lâm chung sẽ bay lên.
C̣n người nặng t́nh th́ bị dính
mắc sẽ ch́m xuống, cho nên nói là bị
đọa.
Ông Chúc-Qúy đă có Phước Đức,
thời gian biết tu ông thường bố thí,
cúng dường chư Phật Bồ Tát, ông
lại biết sám hối và hồi hướng
công đức nên Phước Đức của ông
mỗi ngày mỗi tăng.
Ông thường niệm Phật không ngừng.
Những lần niệm Phật, tâm thể ông
được thanh tịnh tức ông được
Định mà ông không hề hay biết. Như Đức
Phật nói, người chuyên tâm niệm
Phật được Sơ-Phần-Pháp-Thân.
Khi ông được Định tự nhiên Định
sanh ra Huệ.
Để chứng minh, hồi trước ông Chúc-Qúy
không biết chữ. Bây giờ ông ǵa rồi,
trí nhớ phàm phu của ông giảm thiểu,
vậy mà ông Chúc-Qúy lúc gần 70 tuổi,
học được chữ Tàu để
mỗi đêm đọc tụng Kinh A-Di-Đà và Bát-Nhă-Tâm-Kinh.
Vậy chẳng là ông phát Huệ th́ là ǵ?
Từ khi ông đi chùa, nói theo cô
Diệu-Thiện, ông trở thành “Pháp Sư”
cây nhà lá vườn của gia đ́nh ông. Ông
thường giảng giải lại cho vợ
con nghe những ǵ mà ông đă học được
khi nghe Thầy Minh-Chí giảng. Nhờ học tu
mà ông đă pháp Huệ.
Ông đă có Phước, lại có Huệ và có
Tịnh nguyện tức nguyện vọng văng
sanh Tịnh Độ, nên như Kinh nói: “Tùy theo
Tịnh nguyện mà ông được văng sanh,
được thấy chư Phật mười
phương.”
Bậc Cổ Đức dạy thế nào về các
hạnh tu tạo được Phước và
Huệ? Trong “Đường Mây Trong Cơi Mộng”,
trang 395-366, Đại Thiền Sư Hám Sơn
dạy rất rơ rang: “Tu Huệ tức tại
Quán Tâm. Tu Phước tức hành nơi Vạn
Hạnh. Quán Tâm dùng niệm Phật làm phương
pháp tối thắng. Vạn Hạnh dùng sự cúng
dường làm đầu. Hai việc này chính là
hạnh tổng tŕ."
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta khởi tâm
động niệm, đều là vọng tưởng
(tức cội gốc của sanh tử), nên
phải chiêu lấy qủa khổ. Ngày nay dùng tâm
vọng tưởng đó, chuyển làm tâm
niệm Phật, tức niệm niệm thành nhân
Tịnh Độ, đó là qủa an lạc.
Nếu niệm Phật mà tâm tâm không gián đoạn,
th́ vọng tưởng sẽ tự tiêu
diệt. Ánh sáng của tự tâm phát lộ, và
Trí Tuệ hiện tiền, tức trở thành
pháp thân Phật.”
Như vậy qúi vị thấy rơ, ông Chúc-Qúy
nhờ niệm Phật mà tâm tâm không gián đoạn
- như Đại Sư Hám-Sơn nói - ánh sáng
tự tâm của ông Chúc-Qúy phát lộ, trí
tuệ của ông Chúc-Qúy hiện tiền,
tức thân phàm phu của ông trở thành pháp thân
Phật. Do vậy ông Chúc-Qúy có Xá-Lợi.
Nếu qúi vị ráng tập niệm Phật,
niệm niệm không gián đoạn, tâm tâm không
gián đoạn như Sư Bà Đàm-Lựu, như
Thầy Minh-Đạt, như Bà Diệu-Âm, Bà
Diệu-Hưng, Cụ Bà Quảng-Khánh, và Ông Chúc-Qúy
chúng tôi chắc chắn qúi vị cũng sẽ
được những thành qủa tốt
vậy.
Chúng tôi viết sưu tầm này chỉ mong
tất cả qúi Phật tử đều đạt
qủa niệm Phật như các Bồ Tát Đàm-Lựu,
Minh-Đạt, Diệu-Âm, Diệu-Hưng,
Quảng-Khánh và Chúc-Qúy.
Nói về lúc lâm chung của ông Chúc-Qúy, bà
Diệu-Thiện kể: “Sáng hôm đó như
thường lệ khi đang đi kinh hành, nhà
tôi bỗng dừng chân lại một chậu
kiểng, nhà tôi vội nói: -Bà ơi! uổng qúa,
mấy cây khổ qua trồng tới bây giờ
bỗng chết hết rồi. Nghe ông nói, tôi
định lên tiếng nhắc ông hăy lo
niệm Phật. Nhưng tôi chưa nói th́ ông
đă tiếp tục kinh hành và niệm Phật,
tức ông liền trở lại với chánh
niệm. Một lát sau, nhà tôi kêu lên: -bà ơi!
Ngộ đau một bên mặt…rồi sau đó
lại nói: -bây giờ nó đau xuống
ngực.
Tôi chạy vô nhà lấy một viên Tylenol và nước
đem ra cho ổng uống. Khi tôi đưa
thuốc, ổng vẫn niệm Phật. Nhưng
khi tôi trở vào trong th́ một thoáng sau ổng
gục xuống và b́nh thản ra đi.
Theo bà Diệu-Thiện, th́ lúc ra đi ông Chúc-Qúy
vẫn c̣n cầm xâu chuỗi niệm Phật.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phẩm
Thứ Nhứt, trang 18, Đức Phật nói: “Lúc
lâm chung cố giữ sao cho mười niệm
tiếp nối liền nhau, lập tức vào
Phổ Đẳng Tam Muội của đức A-Di-Đà
được Phật tiếp dẫn về
Tịnh-Độ Tây Phương. Vĩnh viễn
xa ĺa các đường ác, không c̣n luân
hồi sanh tử. Đó gọi là qủa vị
Bất Thối Chuyển. Từ ấy nhẫn
về sau vượt qua Thập Địa,
chứng Vô-Thượng-Giác.”
Theo Phật Học Từ Điển: Bất
Thối Chuyển là đối với địa
vị Chánh-Giác của Phật Như-Lai càng ngày
càng gần. Thập Địa tức là địa
vị thứ mười của qủa vị
Bồ Tát. Đó là do ông Chúc-Qúy biết xưng
niệm danh hiệu A-Di-Đà-Phật, lúc lâm chung
với mười niệm tiếp nối
liền nhau, lập tức vào Phổ-Đẳng-Tam-Muội
của Đức Phật A-Di-Đà.
Chỗ này chúng tôi không có khả năng
giảng giải rơ hơn. Chỉ biết
rằng danh hiệu A-Di-Đà-Phật có công năng
hiển thị vô lượng vô biên diệu
dụng, không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, lúc lâm chung ông Chúc-Qúy ra đi
thật nhanh, thật êm ả, không có điều
khiến cho vợ con phải đau khổ
bịn rịn.
Điềm lành khi lâm chung
Sau các bài viết về các vị lâm chung lưu
Xá-Lợi, chúng tôi học được kinh
nghiệm là hầu hết các vị ấy đều
có những “tường triệu” tức là
điềm lành. Như Bà
Huỳnh-Ngọc-Tuyết có hào quang chiếu sáng,
có hương thơm tỏa khắp nhà. Bà
Diệu Hưng và Cụ Quảng-Khánh gương
mặt già nua bỗng nhiên trẻ lại, v.v…
Nếu ông Chúc-Qúy văng sanh hẳn phải có
điềm lành ǵ, nhưng chúng tôi không nghe
thuật lại.
Bây giờ trở lại cuộc tiếp xúc
của chúng tôi với ông Minh-Hiền. Nhớ
lại lời cháu Huệ-An nói trước khi
đưa quan tài ông Chúc-Qúy đến ḷ thiêu,
ông Minh-Hiền gọi riêng cháu ra ngoài dặn
nhỏ: “khi thiêu xong hăy lưu ư t́m Xá-Lợi.”
Như vậy là ông Minh-Hiền đă nhận
thấy được điều ǵ? Nghe chúng tôi
hỏi ông Minh-Hiền nói:
“Một ngày trước khi mất, ông Chúc-Qúy
ghé chùa thăm tôi. Tôi mới mua ở Việt
Nam về hai xâu chuỗi Kim-Sa làm bằng cát vàng
nấu lại. Tôi có hứa sẽ tặng ông
một xâu, v́ lúc đó không đem theo. Ông Chúc-Qúy
đ̣i trả tiền lại, nhưng tôi không
nhận. Hôm sau ông mất, tôi liền đem
đến nhà quàn trao xâu chuỗi tận tay ông.
Lúc cúi xuống, đặt xâu chuỗi vào tay ông,
tôi nh́n mặt ông bỗng thấy mặt ông
rạng rỡ hơn ngày thường, như
trẻ hẳn lại. Do đó, tôi tin rằng ông
Chúc-Qúy đă được văng sanh, nên
mới gọi riêng cháu Huệ-An để
dặn ḍ như ông đă biết.”
Chúng tôi được cung cấp dữ
kiện này, liền gọi điện thoại
cho gia đ́nh bà Diệu-Thiện. Cháu Thanh-Trí
nghe điện thoại, chúng tôi liền báo cho
biết về điềm lành văng sanh của Ông
Chúc-Qúy. Cháu Thanh-Trí kêu lên: “đúng rồi bác!
nhiều bà con đến viếng Ba cháu đều
nói – Sao trông ông Chúc-Qúy mặt mày rạng
rỡ qúa! Điều này quan trọng qúa mà cháu quên
mất.”
Thật ra, nếu Ông Chúc Qúy mất đi không
để lại Xá-Lợi, mà bỏ xót
việc gương mặt Ông Chúc-Qúy biến
đổi trở nên rạng rỡ hơn ngày
Ông c̣n sống, th́ không ai dám nói là Ông đă
được văng sanh Cực-Lạc.
Đây là bài học kinh nghiệm để t́m
hiểu một người lâm chung được
văng sanh hay không.
Giấc mơ thấy kim cương
Trong bài viết của cô Diệu-Thể có
một đoạn như sau: Sau này tôi được
biết, cô thứ Bảy đă được
báo mộng lành. Trước ngày đi hốt
cốt, cô nằm mơ thấy gia đ́nh
nhặt được nhiều kim cương
trong tro cốt của “Papá” cô. Nên cô Huệ-An
đă khấn nguyện, nếu Papá văng sanh th́
cho con thấy điềm lành như thật
để con vững niềm tin.
Cả gia đ́nh ai cũng hy vọng mong đợi
sự thật đến. Nên họ yêu cầu
nhà hỏa thiêu chờ họ đến hốt
cốt. Hồi hộp, nguyện cầu, câu
lục tự Di-Đà vẫn không rời nơi môi
và tâm họ. Việc đến đă đến.
Đúng như sự khấn nguyện của
những con tim thành kính, có đức tin chân chính.
Lẫn trong tro cốt là vô số viên Xá-Lợi
lóng lánh nhiều màu. Họ rung động,
một sự chuyển động toàn diện
của tâm thức. Họ reo lên: “A-Di-Đà-Phật!
Papá văng sanh, Papá thật sự văng sanh rồi.”
Để khỏi sai lầm, v́ bụng tin mà
dạ vẫn c̣n ngờ. Họ phải gọi
về chùa Quang-Minh để hỏi Đại Đức
Thích-Minh-Chí, và họ mang tro cốt về chùa.
Sau khi quan sát Xá-Lợi, Thầy dạy, vâng Bác
Chúc-Qúy đă văng sanh.
(Lời người sưu giải: Thật ra
nhờ tu hành tinh tấn, hành tŕ niệm
Phật đúng theo lời Phật dạy mà ông
Chúc-Qúy khi lâm chung lưu lại Xá-Lợi;
chứ không v́ lời cầu nguyện mà t́m
thấy Xá-Lợi.)
Bác Chúc-Qúy văng sanh thật rồi. “Một trăm
lần nghe không bằng một lần thấy.”
Gia đ́nh Bác Chúc-Qúy đă thấy. Thầy
Minh-Chí không những thấy mà c̣n tận tay
cầm những viên Xá-LợI ấy và cố
gắng bóp thật mạnh để thử xem,
mà không bể. Thầy xác quyết một
lần nữa. “Đây là Xá-Lợi, Phật
tử Chúc-Qúy đă văng sanh!”
Gia đ́nh Bác đă chụp hết thảy mười
một cuốn phim trong khi Thầy ngồi đếm
và phân loại. Các viên Xá-Lợi ra làm bốn
hạng:
1. Có 20 viên Xá-Lợi tṛn vo, to bằng đầu
đũa ăn cơm, màu xanh đậm.
2. Khoảng 50 viên Xá-Lợi nhỏ bằng đầu
ng̣i viết Bic, có viên màu xanh đậm, có viên
màu hồng sáng lónh lánh.
3. Hơn 300 mảnh xương nhỏ và dẹp
có màu xanh nhạt pha trộn vân sáng và một
mảnh xương có ba bốn màu sáng lấp lánh
như xa cừ, đó là Xá-Lợi có từ xương.
4. 60 hoa Xá-Lợi có ṿng tṛn, giữa có
nhiều lỗ nhỏ, đủ màu trông
rất đẹp.
Đặc biệt có một viên Xá-Lợi to
bằng giọt nước và h́nh dạng
giống như giọt nước, màu trắng
tinh tuyệt đẹp.
Tất cả hơn 400 viên Xá-Lợi hiện
đang được tôn trí tại gia
đường Phụng Phật và một ít cúng
dường chùa Quang-Minh và
Phật-Bảo-Tự cùng với vài ngôi chùa
ở Việt Nam để đồng bào
Phật tử có dịp chiêm ngưỡng mà phát
tín tâm, tăng phước duyên cho Bác để
trang nghiêm Tịnh-Độ.
Dịp này, gia đ́nh có hỏi Thầy Minh-Chí
làm thế nào để báo hiếu cho Cha?
Thầy dạy rằng: “Qúi vị nên làm
việc thiện, lợi ḿnh, lợi người
như: cúng dường Tam-Bảo, bố thí, phóng
sanh, in Kinh ấn tống, ăn chay, niệm
Phật, tụng Kinh bái sám, v.v… nguyện đem
công đức đó, hồi hướng
cầu cho hương linh văng sanh, được
siêu phàm nhập thánh.”
Các con ông Chúc-Qúy đă gởi tiền về
cho người chị cả, hiện c̣n ở
Việt Nam để làm lễ Trai Tăng, cúng dường
cho khoảng 50 Tăng Ni và khoản đăi
một ngàn Phật tử thọ Bát Quan Trai.
Về Xá-Lợi, cô Diệu-Thể có kể ra các
tên Xá-Lợi như Bích Xá-Lợi là 20 viên Xá-Lợi
tṛn vo kết tinh từ tóc. Xích Xá-Lợi là 50
viên Xá-Lợi nhỏ có từ thịt. Cô
Diệu-Thể là đệ tử của Ḥa Thượng
Chánh-Lạc, có lẽ cô đă hỏi qua Ḥa Thượng.
Riêng chúng tôi chưa từng nghiên cứu về
Xá-Lợi, nên dè dặt không dám nói đích xác.
Cũng cần nói thêm, trước ngày ông Chúc-Qúy
mất, gia đ́nh ông và gia đ́nh Diệu-Nguyên
(là bạn của bà Diệu-Thiện) hùn
tiền gởi về Cao-Lănh để bố thí
suốt ngày cho gia đ́nh nghèo trong vùng, nhằm
ngày Phật Đản. Mỗi gia đ́nh được
10 kí gạo, 10 gói ḿ gói, bột ngọt và
đường. Của tuy không là bao nhiêu, nhưng
từ tâm đă đem lại phước báo
cho gia đ́nh bố thí rất nhiều.
Chúng tôi được biết, ở California có
một góa phụ, theo lời đề nghị
của người con, bà định đem
mấy ngàn đô la về Việt Nam mướn
người niệm danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật,
rồi hồi hướng công đức
niệm Phật ấy cho chồng. Thực
hiện điều này có mấy điều
lợi ích cho cả ba phía, tức lợi ḿnh
lợi người:
1. Người niệm Phật, dù được
người ta mướn, sẽ được
bảy phần công đức và đương
nhiên sau này sẽ được văng sanh.
2. Người bỏ tiền ra mướn người
niệm Phật, tưởng đâu không công
đức, mà lại được vô lượng
công đức. V́ Kinh nói giúp người
được văng sanh được vô lượng
công đức.
3. Người được hồi hướng
công đức chỉ được ba phần.
Nhưng nhờ có nhiều người niệm
Phật hồi hướng cho ḿnh, nên công đức
tuy ít mà nhiều.
Đừng hiểu lầm về văng sanh
Nhơn đây chúng tôi xin nói rơ một lần
nữa, để trong đời sau nhiều người
khỏi lầm lẫn mà gây tai hại cho thân nhân:
Văng sanh và có Xá-Lợi tuy là một, nhưng có
chỗ khác nhau. Người văng sanh mà có Xá-Lợi
là người đă tu đắc được
các qủa Bồ Tát, nhờ niệm Phật chí
thành và nhứt tâm nên Tâm thể được
thanh tịnh, đạt được định,
thân tâm kết thành những khối lưu ly sáng
rực. Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật,
Phẩm Thứ Tư, trang 66 và 67,
Phổ-Hiền Bồ Tát nói: “…Nếu chúng
sanh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu
Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, tức xuất sanh vô biên
công đức Bất-Khả-Tư-Nghị,
đủ năng lực viên măn Bồ Tát Đạo,
phát huy diệu dụng của tam thân, tứ trí,
thập lực, tứ vô úy, tứ vô lượng
tâm, lục Ba-La-Mật, thập bát bất
cộng, v.v…”
Cũng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, nơi
Phẩm Thứ Năm tức phẩm Niệm
Phật Viên Thông, trang 80, Bồ Tát Quán-Thế-Âm
nói: “Khi xưng niệm Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, hành
giả dần dần thành tựu chánh định
Như-Lai, tự nhiên phát sanh tuệ giác Không-Tánh…”
và trang 81, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói:
“Tiếp tục xưng niệm Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật
như thế, hành giả không phóng tâm theo
huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng
cái biết vào Viên-Giác-Tánh. Đó là danh hiệu
Phật đang tuôn chảy liên miêm bất
tận thành một khối lưu ly sáng rực
vằng vặc.”
Đây là nói đến những vị tu đắc
qủa Bồ Tát đạt được
“Niệm Phật Viên Thông” hay “Niệm
Phật Tam Muội” khi lâm chung được văng
sanh vào phẩm vị Trung-Sanh hay Thượng-Sanh.
Nhưng vẫn có những chúng sanh cũng
niệm Phật nhưng không được
nhứt tâm hoặc những chúng sanh tuy trong
đời thường làm điều ác, song
khi lâm chung có thiện duyên được
Thiện-Tri-Thức giảng pháp, dạy cho
niệm Phật mười niệm nối
liền nhau, liền đó được văng
sanh. Những trường hợp này, người
ta rờ trán thấy hơi nóng c̣n ở đấy,
th́ biết là văng sanh. Dĩ nhiên là văng sanh
bực thấp như Hạ Phẩm hạ sanh
hay văng sanh biên địa, tức là vào thai sanh
như chúng tôi đă giảng trong sách Sưu-Giải
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật.
Những kinh nghiệm cần nói
Sau những bài sưu tầm tài liệu viết
về những vị văng sanh lưu Xá-Lợi,
chúng tôi tự học được một
số kinh nghiệm. Thiết tưởng cũng
nên nói ra đây với ḷng mong muốn giúp cho
mọi người được lợi
lạc.
Theo chúng tôi, bất cứ ai văng sanh được
Phật-A-Di-Đà và Thánh Chúng đón rước,
th́ lập tức đi thẳng ngay về cơi
Cực-Lạc. Có nghĩa là Thần Thức
của người qúa cố không c̣n lẩn
quẩn quanh nhục thân nữa. (điều này
đă nói trong bài cụ bà Quảng-Khánh.)
Trong các sách nói về Tử Thư hay sách
Liễu Sanh Thoát Tử dạy khi lâm chung trong ṿng
tám tiếng đồng hồ đều không
được di chuyển nhục thân, gia đ́nh
phải liên tiếp niệm Phật trong
nhiều ngày và cần phải cầu siêu cúng
kiếng mỗi tuần, trong suốt 7 tuần
nhựt. Thật sự lời dạy nhắm
chung về những người được
nghi ngờ chưa văng sanh. Trong những giờ
ngày đó, Thần Thức của người qúa
cố, nếu chưa được văng sanh,
đang hoang mang không biết về đâu, c̣n
đang luyến tiếc nhục thân. V́ vậy mà
cần phải niệm Phật mà ổn định
tinh thần, rồi nương theo tiếng
niệm Phật mà ổn định tinh
thần, rồi nương theo tiếng niệm
Phật mà ổn định tinh thần rồi
nương theo tiếng Phật, để
được tiếp dẫn.
C̣n người biết pháp môn xưng niệm
danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, như Kinh
Niệm Phật Ba-La-Mật nói, khi lâm chung
cố giữ sao được 10 niệm
nối tiếp nhau chắc được văng
sanh, đi thẳng tắt về cơi
Cực-Lạc.
C̣n như Ông Chúc-Qúy niệm Phật, bỗng ông
ngưng lại xem cây khổ qua đă héo
chết, rồi kêu vợ, nói cho hay; nếu
liền đó ông ra đi… tức là ông không
giữ được 10 niệm nối tiếp
nhau.
Bà Diệu-Thiện, vợ Ông là người
nhiều tín tâm và hiểu đạo, thấy ông
ngưng niệm Phật, muốn lên tiếng,
bảo ông hăy lo niệm Phật. Nhưng sau
đó thấy ông trở lại chánh niệm, bà
nín lặng luôn.
Nhờ ông trở lại chánh niệm, dù
bịnh biến óc năo xảy ra, ông vẫn
giữ được 10 niệm khi ra đi mà trên
môi, trong tâm ông vẫn c̣n câu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật.
Điều này cũng phải nói, nhờ ông Chúc-Qúy
đă tập, quen niệm Phật từ
nhiều năm tháng. Sự tập luyện cho thành
thói quen rất hữu ích cho Người-Tu-Niệm-Phật.
Đó là kinh nghiệm thứ nhứt. Kinh nghiệm
thứ nh́ cũng rất quan trọng, xin qúi
vị lưu tâm ghi nhớ: “khi thấy ông Chúc-Qúy
bị ngất, bà Diệu-Thiện liền
gọi người nhà và xe cấp cứu đến.”
Chúng tôi tế nhị khi nói chuyện với bà
Diệu-Thiện, đă giải thích cho bà
biết rằng: “Khi ông Chúc-Qúy tắt thở,
ông đă văng sanh ngay.” Chúng tôi đem lời
kinh đọc cho bà nghe.
Kế tiếp chúng tôi mới hỏi bà, khi xe
cấp cứu đến nhân viên y tế làm
điều ǵ? Bà nói họ làm hô hấp,
rồi sau đó dùng máy có điện giựt.
Đó là phương thức cấp cứu thường
lệ. Những điều sau đây, chúng tôi
đă tŕnh bày cho bà Diệu-Thiện nghe, bây
giờ ghi ra để qúi vị ghi nhớ
hầu tránh điều đáng tiếc sau này.
Trong nhà Phật, điều quan trọng nhứt
là lúc lâm chung, nếu khi ấy trong tâm người
qúa cố nổi lên một niệm sân hận:
đó là cái nhân sẽ đưa thần
thức người ấy đọa vào
đường dữ. Phật đă dạy
điều này rất rơ trong các Kinh. Tất
cả đều do cái niệm cuối cùng. Ngài
Tu-Bồ-Đề, đệ tử lớn của
Phật, là một bực A-La-Hán, vậy mà trước
khi đi khất thực, Ngài đoán trước
nếu hôm đó Ngài sẽ gặp một người,
mà người đó khi gặp Ngài sẽ
nổi lên một niệm sân, th́ Ngài chính là cái
nhân đọa địa ngục cho người
đó. Ngài thà nhịn đói ở nhà chớ
không đi khất thực ngày đó.
Tại sao lại quan trọng hóa vấn đề
này như vậy?
Chúng tôi thường dặn người nhà,
bất cứ khi nào tôi bịnh, yếu phải
ngất xỉu, cứ để tôi nằm yên
niệm Phật mà chết, chứ đừng kêu
xe cấp cứu. Phương pháp cấp cứu
bây giờ thường dùng máy cho điện
giựt tim. Gặp trường hợp không
cứu được, người bịnh
chết ngay, thần thức của người
bịnh cảm thấy đau đớn,
liền nổi sân giận. Sân giận là cái nhân
đọa địa ngục.
Thường t́nh chúng ta quan niệm sai lầm,
chỉ nghĩ cần cứu sống người
thân bằng mọi giá, mà không hiểu rằng
một người v́ sân giận mà chết
đi, thần thức người ấy đọa
vào địa ngục, ngạ qủy hay súc sanh
vô số kiếp, tức hàng triệu hàng
tỷ năm mới có cơ hội trở
lại làm người. Nếu người
bịnh biết tu hành hăy khuyên họ giữ chánh
niệm tức niệm Phật, niệm niệm
nối tiếp nhau không gián đoạn mà không
cần gọi xe cấp cứu và người nhà
cùng bạn bè đồng trợ niệm th́ người
ấy sẽ được văng sanh dù là hạ
phẩm hay nơi biên địa của cảnh
Cực-Lạc, vẫn c̣n hơn là v́ bị
đau đớn mà sanh sân giận, rồi đọa
vào đường dữ.
Lạt Ma tái sanh Sogyal Rinpoche viết trong cuốn
Tạng Thư Sống Chết do Ni Sư
Tứ-Hải dịch, nói rơ nơi trang 499 như
sau:
“Phương pháp phục hồi sự sống
có thể gây bực bội phiền nhiễu và
tán loạn vào giờ phút cao điểm của
cái chết. Giáo lư Phật cũng như kinh
nghiệm cận tử nghiệp đều cho
thấy ngay cả những người hôn mê cũng
vẫn hoàn toàn biết mọi sự xảy ra
xung quanh họ. Những ǵ xảy ra trước
khi chết, vào lúc chết, và cho đến cái
lúc thần thức rời kḥi xác là những giây
phút hết sức quan trọng đối
với một hành giả tâm linh đang cố
tu tập an trú trong tự tánh tâm.
Nói chung, cách cứu chữa chỉ để mà
kéo dài tiến tŕnh chết có nguy cơ là nó
chỉ nhen nhúm thêm sự bám víu không cần
thiết, giận dữ và bất măn nơi người
hấp hối, nhứt là khi ấy không phải
là ư muốn của họ. Những thân
quyến gặp khó khăn trong lúc quyết định,
và cảm thấy tràn ngập trách nhiệm
về cái chết của người thân,
cần nên nhớ rằng nếu không có hy
vọng qua khỏi, th́ phẩm chất những
giờ phút cuối cùng của người thân
họ c̣n quan trọng hơn là chỉ giữ
cho họ sống. Ngoài ra, v́ ta không bao giờ
biết được, thần thức c̣n
ở trong thân xác hay không, làm như vậy ta
chỉ bắt buộc thần thức họ
bị giam trong một thể xác vô dụng."
Đây chỉ là một đoạn ngắn trong sách
Tạng Thư Sống Chết. Thật ra ít có
người can đảm làm việc này, v́
họ cho là tàn nhẫn. Nhưng nếu là người
biết tu, th́ biết đó là một quyết
định sáng suốt, giúp cho thân nhân thoát
khỏi luân hồi khổ năo trong vô số lượng
kiếp.
Ông Chúc-Qúy độ nhiều người
Trong bức thư viết cho chúng tôi, Đại Đức
Minh-Chí viết: “Phật tử Chúc-Qúy khi
sống không độ được ai mà khi
chết lại độ được
nhiều người.”
Qủa thật vậy, khi ông c̣n sống, người
con trai lớn của ông không tin vào đạo
Phật, nay th́ anh này mỗi ngày đều qua
nhà ông tụng kinh với gia đ́nh.
C̣n người con trai thứ hai nằm mơ
thấy ông kêu đi tụng kinh nên càng tin hơn
- Điều đáng tin nhứt, trước kia b́nh
bông cúng Phật chỉ để hai tuần là
héo. Vậy mà từ ngày ông Chúc-Qúy mất, b́nh
bông cúng Phật ở nhà ông sáu tuần chưa
héo.
Theo Sư Cô Như-Lan từ chùa Hưng-Thiền,
Cao-Lănh cho biết, được tin ông Chúc-Qúy
văng sanh lưu lại Xá-Lợi, Phật tử
Cao-Lănh phát tâm tu niệm Phật đông đảo.
Bây giờ những ngày thọ Bát Quan Trai,
Phật tử về chùa đông không c̣n
chỗ ngồi – Chùa Hưng-Thiền do Thượng
Tọa Thích-Phước-Đức trụ tŕ.
Trước khi dứt bài này, chúng tôi xin mượn
bài của cô Diệu-Thể kể một vài
chuyện vui liên hệ đến tánh t́nh
mộc mạc, chân thật của ông Chúc-Qúy và
khi tu ông không câu nệ một điều ǵ,
chấp nhận hỏi để tu học. Cô
Diệu-Thể viết:
Có lần bác đă hỏi Đại Đức Thích-Minh-Chí,
trụ tŕ chùa Quang-Minh:
Kính bạch Thầy, đang ngồi tụng kinh
hoặc nghe pháp mà lỡ đau bụng th́nh ĺnh
phải “đánh rấm” như thế có
tội không?
Cả đại chúng ai cũng ôm bụng cười,
Thầy cũng cười trả lời: “Trường
hợp bất khả kháng th́ Phật tha, nhưng
mà ráng tránh th́ tốt hơn.”
Bác lại hỏi tiếp: “Lỡ tránh không
nỗi th́ sao Thầy?”
Kết qủa như thế nào chắc qúy
vị cũng biết…
Lần khác cũng tại chùa Quang-Minh, Bác đă
hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy, chân con
đau không ngồi kiết già được.
Xin Thầy chỉ cho con cách ngồi niệm
Phật cho thoải mái.”
Thầy Minh-Chí đă trả lời ba cách
ngồi niệm Phật theo sự hướng
dẫn của Ḥa Thượng Thích-Đức-Niệm:
“Bác đau chân không có ngồi kiết già và bán
già th́ bác cứ ngồi duỗi chân ra cho
thoải mái để niệm Phật, đó
gọi là “tự do già”.”
Ai cũng cười “cái già tự do” của
Thầy.
Từ sự rụt rè lẻ loi của buổi
ban đầu mới đến chùa, bác Chúc-Qúy
bây giờ trở thành một “học viên
xuất sắc”. Trong các khóa học và các
buổi sinh hoạt Phật sự ở các chùa.
Bác thường tiên phong các công tác lạc quyên,
đóng tiền cúng dường Tam-Bảo, in
kinh ấn tống, bố thí, phóng sanh, v.v…
Bằng tiếng Việt lơ lớ của người
Hoa, bác phát pháo: “để tôi mở hàng,
đắc lắm.”
Thế là bác đă gây hào hứng cho đại
chúng, ai cũng nương phước đức
của bác mà hoan hỷ “hùn vốn”
Trích
trong sách “Những Chuyện Văng Sanh Lưu Xá
Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải. |
|
|