Chương 9
BẮT
ĐẦU NẾM MÙI MIỀN BẮC
XĂ HỘI CHỦ NGHĨA
Khoảng đầu tháng 6-1976, sau vụ xử tử h́nh hai bạn tù Bé và
Thịnh vượt rào trốn trại, đoàn cán bộ Trung ương Hànội “khẩn
trương” tới trại Suối Máu gặp Tù. Họ giải thích trấn an thêm, về
chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước Cộng hoà Xă
hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) “trước sau như một”, cho mọi
người thêm tin tưởng mà đừng dại dột có hành động chống đối hoặc
trốn trại.
Trong đợt học tập này, một số anh em tù Đại tá chúng tôi bị gọi
ra văn pḥng Khu, gặp cán bộ để “làm việc”, trong đó có Tôi. Họ
hỏi về tổ chức, trách nhiệm của các Cơ quan, Đơn vị, ḿnh đă
phục vụ từ ngày nhập ngũ cho đến ngày 30-4-1975. Rồi đưa giấy
bút cho ḿnh trở vào trong trại giam, ngồi ghi chép lại để nộp
cho họ trong ṿng 3 ngày sau. Có điều thú vị là, ai bị gọi “làm
việc” như vậy, đều được Cán bộ “bồi dưỡng” cho 300 gram đường
cát trắng, và 1 bao thuốc lá Sapa sản xuất từ miền Bắc Xă hội
Chủ nghĩa (XHCN).
Thực ra, mục đích chính của đợt học tập này, là lập hồ sơ cá
nhân Tù, trước khi đưa đi các trại lao động cải tạo thật sự. Họ
chụp ảnh từng người, lăn dấu các ngón tay vào bià cứng, loại
thường dùng để làm hồ sơ cấp thẻ căn cước. Họ buộc mọi người
khai chi tiết lư lịch cá nhân, vợ, con, anh chị em cha mẹ ruột
của ḿnh, anh chị em cha mẹ của vợ, và ông bà họ hàng thân thích
nội ngoại từ 2 đời trước ḿnh. Họ c̣n bắt ghi cả nghề nghiệp,
nơi ở và nơi hành nghề hiện tại của mọi thân quyến nêu trên.
Ít ngày sau đợt học tập chấm dứt, vào một đêm không trăng sao,
mọi người đang an giấc, bỗng dưng đèn điện trong nhà ngoài sân
bật sáng trưng. Đồng thời, loa phóng thanh ngoài cổng Khu oang
oang ra lệnh, thu gói đồ đạc tư trang cá nhân ra sân tập họp đợi
lệnh. Bộ đội canh tù cầm súng chạy rầng rầng chung quanh các
Láng. Cán bộ Quản giáo đến đứng trước cửa từng nhà hối thúc
“khẩn trương! Khẩn trương!”.
Khoảng 30 phút sau, mọi người tay xách nách mang tư trang, tề
tựu xếp hàng theo thứ tự từng Đội đầy nghẹt sân tập họp. Các
Quản giáo chạy vào các Láng trống, kiểm soát lần chót để chắc
chắn mọi người đă ra hết. Đồng thời, Bộ đội cảnh vệ từ bên các
dẫy hàng rào kẽm gai chung quanh Khu, cũng rút lần lần vào xiết
chặt ṿng vây, lăm lăm tay súng, chia nhau đứng ṿng quanh sân
canh gác.
Ban Chỉ huy Trại bắt đầu đọc tên từng người một, buộc phải trả
lời “Có!”, rồi đứng lên mang hành trang của ḿnh, đi ra ngoài
cổng Khu giam ngồi sát nhau, dài dài 2 bên lề đường. Độ chừng
150 người được gọi ra, trong đó có Tôi, tức là khoảng phân nửa
tổng số Đại tá bị giam giữ tại đây. Những người không có tên
phải ra đi, ngồi lại tại chỗ đợi lệnh.
Người cuối cùng trong nhóm phải lên đường vừa ra khỏi cổng, th́
lệnh hô : “-Mọi người ngồi xuống dọc 2 bên lề đường, bầy hết tư
trang của ḿnh ra trước mặt để Cán bộ kiểm tra”. Họ yêu cầu mỗi
người phải tự “cảnh giác” vứt bớt đồ đạc của ḿnh đi, chỉ để lại
những ǵ thật cần thiết cho nhẹ nhàng dễ di chuyển.
Nhiều anh nhà khá giả được tiếp tế hậu hỹ, ngoài chiếc vali đựng
quần áo c̣n 2, 3 bao ba lô đựng đầy lon gô, cóng ni lông đựng
thực phẩm, phân vân không biết để cái nào vứt cái nào, thật khó
xử.
Phần Tôi nghèo nàn, chỉ có 2 món rất nhẹ nhàng. Chiếc túi vải
đeo lưng, may lấy bằng vải kaki xanh nước biển, đựng quần áo,
mùng, mền, 2 bọc ni lông đựng mỗi bọc 1 kí lô ḿ ăn liền vụn,
keo đường thẻ, vài bọc kẹo lạc. Và một túi xách nhỏ cằm tay,
loại đeo đạn phóng lựu nhặt được tại bên chân bờ rào trại Long
Giao, đựng chiếc soong tôn nhỏ, do anh bạn Đại tá Trịnh Đ́nh
Đăng chỉ vẽ cách g̣ lấy từ ngày về trại Suối máu này, với chiếc
bi đông nhựa đựng nước uống, bộ gà mèn th́a nỉa đựng đồ ăn hàng
ngày, và bộ cờ Mạt Chược đẽo bằng gỗ cao su. Nên chẳng phải bận
tâm tính toán ǵ cả. Thế mà Cán bộ kiểm tra cũng nhặt chiếc
soong tôn nhỏ, vứt vào đống đồ phải loại bỏ không cho mang theo.
Ông ta nói : “-Tới nơi mới không cần nấu nướng riêng.”
Sau khi mọi người ṃ mẫm cởi gói, bầy hết tư trang của ḿnh ra
xong, các Cán bộ nối tiếp nhau đi qua đi lại nhiều lần, rọi đèn
pin coi ai c̣n nhiều đồ cồng kềnh, th́ họ tự động lấy những thứ
nào mà họ cho là không cần thiết, vất thành một đống bên vệ
đường.
Người vứt đi kẻ nhặt lại, gạn ép măi. Cuối cùng mọi người cũng
được lệnh gói ghém đồ đạc c̣n lại cho gọn gàng, di chuyển ra chỗ
khác theo thứ tự tên gọi, họp thành từng nhóm riêng cho mỗi xe,
ngồi chờ.
Qua tin tức truyền tai nhau, theo sự bật mí của cán bộ Trưởng
Khu, được biết là anh em chúng tôi sẽ “hành quân” về hướng Hóc
Môn.
Mọi người ngồi bệt xuống đất bên vệ đường, tựa lưng vào đống
hành trang riêng, ngủ gục phơi sương chờ. Măi đến khoảng 4 giờ
sáng xe mới tới. C̣i hiệu giục tuưt tuưt tuưt từng hồi đánh thức
mọi người. Cán bộ hướng dẫn từng Đội, đến bên từng xe theo số
quy định trước, luôn mồm hối thúc “khẩn trương”.
Đoàn xe di chuyển ra xa lộ Biên Hoà, rẽ về hướng Saigon, băng
qua cầu Tân cảng Thị Nghè, tiến vào đường Hàng Sanh, Bà Chiểu,
đi về hướng ngă tư Phú Nhuận. Tới ngă tư, đoàn xe rẽ qua hướng
đi G̣ Vấp. Chạy tới ngă năm Trung tâm tiếp huyết cạnh Tổng Y
viện Cộng Hoà, đoàn xe rẽ vào phi trường Tân Sơn Nhất, đến đậu
tại khu vực có các ụ trú ẩn dành cho các Chiến đấu cơ Hoa Kỳ
trước kia.
Trời vừa mờ sáng, sương đêm c̣n dầy đặc, không nh́n thấy ǵ
chung quanh xa hơn 20 mét. Mọi người được lệnh đem hành trang
xuống xe ngồi chờ máy bay. Người th́ lục lọi tư trang t́m thức
ăn, ngồi bệt xuống đất ẩm sương đêm dùng bữa sáng. Người th́
chạy đến bên ụ đất giải quyết việc riêng. V́ không được bỏ chỗ
tập trung đi xa quá 5 mét, nên mùi xú uế của nước tiểu và phân
nóng sốt trong cơ thể thải ra xông mùi nồng nặc. Nó làm ô nhiễm
bầu không khí trong lành, man mát ẩm hơi sương đang bao phủ mọi
người. Thật khó chịu.
Đợi cũng chừng hơn tiếng đồng hồ, mới thấy mấy chiếc phi cơ
C-130 ḅ tới. Cán bộ Trại Suối Máu bàn giao Tù cho nhóm Cán bộ
khác, mặc quân trang mầu kaki vàng, đeo súng lục, mang giầy da
cao cổ đen, y như loại của lính Việt Nam Cộng hoà (VNCH) cũ, vừa
từ trên phi cơ bước xuống.
Sau khi đôi bên Cán bộ thảo luận với nhau xong, mọi người được
nhóm Cán bộ áp giải mới gọi tên, lần lượt vác hành trang lên phi
cơ, ngồi dài dài sát bên nhau, trên 4 dẫy ghế bằng dây vải, dọc
theo thân phi cơ.
Các Cán bộ áp giải đến từng chỗ ngồi, lấy c̣ng số 8 đeo vào tay
mỗi 2 người chung một chiếc. Tôi chẳng may bị c̣ng nhằm tay phải.
V́ Tôi không thuộc dân thuận tay chiêu (tay trái), nên mỗi khi
khát muốn lấy bi đông nước uống, cũng thật là khó khăn. Chỉ có
một tay rảnh, phải kẹp bi đông nước giữa 2 đầu gối, dùng tay
trái mở nắp b́nh rồi đưa lên miệng. Uống xong cũng phải kẹp bi
đông giữa 2 đầu gối, dùng tay vặn đóng chặt nắp b́nh lại, rồi
nhét trở lại túi xách đeo ṭng teng trước ngực. Làm không cẩn
thận, lỡ vuột tay b́nh rơi xuống sàn phi cơ, th́ sẽ chẳng c̣n
nước mà dùng khi cần đến.
Sau khi mọi người đă ngồi yên chỗ, không c̣n nhúc nhích được nữa,
một cán bộ đeo túi da bên hông h́nh như trưởng toán, đi một ṿng
kiểm tra lại, để bảo đảm các c̣ng số 8 đă được khoá chặt chẽ, và
không c̣n ai chưa bị c̣ng. Xong xuôi, anh ta mới xuống đất dẫn
độ 2 phi công lên, đi từ bửng cửa mở nơi phía đuôi phi cơ, dọc
qua các hàng ghế tới phía đầu phi cơ, leo lên pḥng lái. Có
người nhận ra được là phi công Quân Lực VNCH cũ, nhưng không nhớ
ra tên.
Tôi không nhớ chắc có mấy cảnh vệ đi áp tải trên phi cơ. Chỉ nhớ
rằng, có 2 người đứng chặn ngay nơi chân chiếc thang lên pḥng
lái. C̣n những người kia đứng phía cuối phi cơ, giữa khu chất
hành lư và các dẫy ghế ngồi của chúng tôi.
Chừng dăm phút sau khi 2 phi công lên pḥng lái, thấy bửng cửa
sau phi cơ từ từ dâng lên khép kín lại. Toàn thân phi cơ bắt đầu
rung động, mạnh nhẹ tùy theo sự tăng giảm tốc độ của các động cơ
gắn trên 2 cánh. Sau cùng thấy phi cơ lăn bánh chạy từ từ, rẽ
qua phải, rẽ qua trái, ngừng lại. Giây lát sau, tiếng động cơ rú
lên đinh tai nhức óc, thân phi cơ rung động mạnh, phăng phăng
chạy tới mỗi lúc một nhanh hơn lấy đà cất cánh rời mặt đất, bốc
lên cao.
Sức ép của không khí do vận tốc phi cơ gây ra, làm lùng bùng tức
buốt 2 màng nhĩ, ruột gan như muốn dồn lên trồi qua cửa miệng.
Có người chịu không nổi, mửa ra tất cả những ǵ đă ăn vào khi
sáng, lúc đang ngồi chờ phi cơ tới. Mùi chua của thức ăn chứa
trong bao tử chưa tiêu hoá tuôn ra, xông nồng nặc lẫn với mùi
dầu gió Khuynh Diệp và mồ hôi người, tạo thành một bầu không khí
ngột ngạt làm ngộp thở, lợm họng buồn nôn.
Phi cơ cất cánh, lượn ṿng ṿng, rồi mới bay thẳng theo hướng
phải đi. Ánh nắng mặt trời chiếu từ các khung kính cửa nhỏ, bên
phiá sườn phải vào trong phi cơ. Hiện tượng này cho biết, chuyến
bay đi hướng Bắc, chớ không đi hướng Tây để ra Phú Quốc, như một
nguồn tin đă x́ xầm hồi đang ngồi chờ dưới đất. Bay đi đâu vậy?
Phải chăng lên miền Cao nguyên miền Trung, Nam phần Việt Nam?
Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ bay đă trôi qua, phi cơ vẫn giữ
nguyên cao độ. Những anh ngồi dẫy ghế sát bên thân phi cơ cho
biết, cảnh phía dưới thấy toàn là biển cả mênh mông. Vậy là đúng
như Tôi đă dự đoán từ hồi c̣n ở trại Long Giao, ra cải tạo tại
miền đất Bắc Xă hội Chủ nghĩa. Thật là một đại họa không hy vọng
có ngày về.
Ù ù bay măi tới xế trưa, phi cơ mới đảo cánh lượn ṿng đáp xuống
1 phi trường nhỏ trên vùng cao nguyên, chung quanh toàn rừng núi,
không nhà cửa làng xóm. Phi cơ run rẩy từ từ ḅ ra khỏi phi đạo,
ngừng lại, bửng cửa hậu rè rè hạ xuống. Cán bộ đến mở c̣ng cho
mọi người. Riêng phần Tôi, không biết điềm xui xẻo nào đang chờ,
c̣ng mở không ra. Mọi người xuống hết, Tôi và anh bạn đeo chung
c̣ng, đành phải nghiêng người dắt nhau kẻ trước người sau, đi
ngang ngang giữa 2 dẫy ghế vải, để ra bửng cửa hậu phi cơ nhẩy
xuống đất. Hai cổ tay dính chặt bên nhau, chúng tôi kéo nhau đi
tới đi lui cầu cứu các Cán bộ áp tải. Hồi lâu, mới có người đem
1 chùm chià khoá tới, thử hết cái này đến cái kia, sau cùng cũng
giải thoát được cổ tay khỏi chiếc c̣ng ác nghiệt.
Thật hú vía, nếu chẳng may phi cơ gặp nạn phải đáp khẩn cấp, lửa
bốc cháy, một trong 2 chúng tôi bất tỉnh, người c̣n tỉnh không
biết phải làm sao. Chắc là đành ngồi chịu đựng lửa thiêu đốt, và
đau đớn hành hạ ḿnh lần lần, trước khi cái chết đến giải phóng
cho được thảnh thơi, hồn ĺa khỏi xác.
Sau khi chúng tôi xuống hết, các phi cơ lạnh lùng quay trở ra
phi đạo, nối đuôi nhau cất cánh bay mất hút, không một lời giă
biệt.
Cách chỗ chúng tôi đứng chừng 100 mét, có một đoàn xe đậu chờ
sẵn. Gần bên đoàn xe, thấy dựng 2 chiếc dù to mầu đỏ, một chiếc
bàn, và mấy người mặc quân phục kaki màu vàng. Họ tiến về phiá
chúng tôi. Người đi giữa coi vẻ bệ vệ, Tướng của Sư đoàn Việt
cộng “tiếp quản” giáo dục chúng tôi lao động cải tạo. Ông ta cất
giọng hỏi : “-Các anh có biết đây là đâu không?” Mọi người ngơ
ngác lắc đầu. Ông ta tiếp tục : “-Đây là đất miền Bắc Xă hội Chủ
nghiă. Các anh được đưa ra đây có môi trường thuận lợi hơn trong
Nam Bộ, để học tập cải tạo cho mau tiến bộ. Thời gian sẽ không
lâu, khoảng từ 3 đến 5 năm thôi. Tuy nhiên, cũng c̣n tùy thuộc
vào tinh thần học tập và sự tiến bộ của mỗi người.” Ông ta chỉ
nói bấy nhiều lời, rồi đứng đó nh́n chúng tôi theo lệnh trưởng
đoàn áp tải lên xe. Anh em chúng tôi cũng chẳng ai có dịp hỏi
xem, đây là địa phương nào của đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa.
Đoàn xe chuyển bánh, chạy ṿng vèo xuống dốc, băng rừng xuyên
núi, măi mới tới 1 bến phà. Một mảnh ván nhỏ trên đầu cọc gỗ
đóng bên lối dẫn xuống bờ sông, ghi 3 chữ “Phà Âu Lâu”. Bề ngang
sông cũng không rộng lắm, nước chẩy cũng không xiết lắm, nên phà
được mấy người lái kéo bằng tay, dựa theo sợi dây cáp căng từ bờ
bên này sang bờ bên kia, chớ không dùng động cơ đẩy. Xe lần lượt
qua phà từng chiếc một.
Có vài người dân địa phương cùng xuống phà, qua sông một lượt
với chúng tôi, nhưng v́ lệnh cảnh vệ áp giải cấm không được tiếp
xúc với dân chúng, nên không ai giám hỏi chuyện. Khi cả đoàn xe
qua phà xong, lại tiếp tục con đường độc đạo, leo ṿng vèo theo
các sườn dốc núi cao, 2 bên toàn rừng rậm, khe sâu.
Xóc lên dập xuống, lắc qua lắc lại, chạy măi đến xẩm tối, mới
tới một khu nhà trên đỉnh đồi, doanh trại của Ban chỉ huy Liên
trại 1. Đoàn xe vượt qua để rẽ xuống bên kia sườn đồi, đậu lại
trước 2 dẫy nhà làm bằng “chổm” (một loại nứa nhỏ thuộc họ nhà
tre). Mái nhà lợp bằng những tấm tranh “chổm” đập dẹp ra kết
lại. Vách cũng bằng “chổm” đập dẹp đan thành phên. Hàng rào cao
3 mét vây quanh 2 dẫy nhà, cũng bằng “chổm” nguyên cây dài kết
liền nhau, đóng sâu xuống đất. Có lẽ sản phẩm thiên nhiên chính
của vùng này là “chổm”, nên cái ǵ cũng làm bằng “chổm” cả.
Xuống xe xong, anh em được lệnh chia thành 2 nhóm, vào ngủ trong
các căn nhà “chổm” đó. Một số anh lanh lợi tinh khôn, chạy ùa
vào trước dành chỗ nằm tốt. Nhưng buồn một nỗi, sàn nằm cũng
bằng phên “chổm”, nên chỗ nào cũng cồm cộm đau lưng như nhau.
Không ai nói cho biết đây là đâu, nhưng anh em cũng đoán ra là
khu trại đặc trách sản xuất gạch. V́ sát ngay bên ngoài hàng rào
khu nhà, thấy lù lù cao ngất một ḷ nung gạch. Anh em x́ xầm
đoán là được đưa đến đây học làm nghề sản xuất gạch. Chẳng ai
nói ra, nhưng chắc chắn trong thâm tâm mọi người đều ngài ngại
lo lắng. Hẳn là ai cũng đang mường tượng ra cảnh mùa đông giá
lạnh, quần vắn lên tận bẹn, áo cuộn tay tới nách, quần quật lăn
lộn với những hầm đất sét, nhào nặn đóng gạch, đi lấy gỗ rừng về
nung đốt ḷ ngày đêm, sẽ vất vả lắm. Nhưng biết làm sao, đến lúc
đường cùng rồi phải kiên nhẫn chịu đựng, lâu dần rồi cũng phải
quen.
Đi học lao động cải tạo tư tưởng, để mong tiến bộ trở thành
người Công dân Xă hội Chủ nghĩa, th́ tránh sao khỏi khổ nhục
nặng nề vất vả. Điều căn bản là làm sao giữ được sức khoẻ, sống
được đến ngày về với vợ con, xây dựng lại cuộc đời dưới cái chế
độ độc tài, mà ḿnh đă bao năm cằm súng chiến đấu chống nó.
Sau khi ai nấy thu xếp xong tư trang tại chỗ nằm tạm của ḿnh,
quay ra sân quan sát cảnh vật th́ trời đă tối mù. Thời gian giao
điểm giữa ngày và đêm, trên cái vùng rừng núi cao nguyên Bắc
Việt này sao mà nhanh đến thế.
Cùng lúc đó, Cán bộ cũng chở thức ăn tối đến phát cho mọi người,
theo biên chế lúc lên máy bay tại Sàig̣n hồi sáng tại phi trường
Tân Sơn Nhứt. Dưới ánh đuốc chập chờn, thấy những thúng đựng thứ
ǵ mầu lẫn trắng và vàng, có người cười reo cho là xôi đậu xanh.
C̣n những thau nhôm khác đựng thứ có mầu nâu xậm, có người lại
đoán là thịt ḅ kho. Xôi đậu mà ăn với ḅ kho, sau một ngày di
chuyển vất vả th́ thật là tuyệt vời. Nhưng khi lănh rồi đem vào
buồng giam chia nhau ăn, mới chưng hửng tan mộng. Bắp khô xay
nhỏ nấu chín, và khoai lang luộc. Bữa ăn tối đó, ngô độn khoai,
với chút muối vừng (mè).
Có lệnh cho mọi người xuống suối tắm rửa “khẩn trương”, trước
khi điểm danh vào nhà giam đi ngủ. Trời tối hu, không đèn đóm.
Con đường ṃn dẫn xuống suối hẹp, dốc thẳng đứng, đất đá lổn
nhổn trơn trợt, phải luồn lách cây rừng và cỏ lau 2 bên tḥ ra
quẹt cứa xây sát cả mặt mày, mới tới được bờ suối. Ḍng nước cạn
chỉ cao tới lưng bắp chân nhưng chẩy xiết, lạnh cóng. Ḷng suối
đầy sỏi đá lớn nhỏ bám đầy rêu, đạp lên trượt đứt xước bàn chân,
cổ chân, máu chẩy buốt sót đau nhói.
Nhà vệ sinh công cộng lộ thiên, ở sát bờ rào. Ban đêm ai cần đi
tiểu hoặc đại tiện th́ phải ra ngoài nhà giam. Dẫy nhà chỉ có
một lối ra vào duy nhất, ở phiá đầu nhà, không cánh cửa. Mỗi lần
đi ra hay trở vào, đều phải cao giọng hô lớn : “ -báo cáo anh bộ
đội tôi đi tiểu, -báo cáo anh bộ đội tôi đi cầu, -báo cáo anh bộ
đội tôi đi tiểu vào, v.v…”
Tối hù chẳng thấy bóng anh bộ đội ở đâu, nhưng vẫn phải hô lớn
báo cáo, nếu không, tự dưng ở đâu anh ta quát : “-anh kia đi
đâu?”, là sẽ mắc hoạ lớn, bị đem nhốt ngay v́ tội “có mưu đồ”
trốn trại ban đêm.
Cả hơn trăm con người tuổi đă cao, thay nhau đi ra đi vào hô
hoán suốt đêm như vậy, những người khó ngủ như Tôi đành chịu
cảnh thức trắng thôi. Đă thức không ngủ được, th́ óc nghĩ ngợi
lang bang nhiều chuyện thật khổ tâm.
TRẮNG ĐÊM TRÊN ĐẤT BẮC
XĂ HỘI CHỦ NGHĨA.
Sàn tre vật vă ẩm ê,
Lắng nghe giun dế tỉ tê nỗi niềm.
Lao xao chuột rúc bên thềm,
Ŕ rầm suối đổ, cú chêm nhịp buồn.
Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn,
Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song.
Nhớ con thương vợ năo ḷng,
Chợ đời bạc bẽo long đong một ḿnh.
Thời gian hờ hững vô t́nh,
Không gian khỏa lấp bao h́nh thân thương.
Bắc, Nam, chung cảnh đoạn trường,
Lương dân cùng khốn, Quê hương tan tành.
Tung hoành Cộng đảng gian manh,
Bầy tṛ giai cấp đấu tranh hại đời.
Oán than dâng thấu tận Trời,
Ông Cao Xanh hỡi ! nỡ ngồi làm ngơ ?
Họa Hồng Thủy đến bao giờ?
Mới cho dân Việt thấy bờ Tự do?
Liên trại 1, Xă Việt Cường, Yên Bái, Tháng 6-1976.
.