Chương 8
SUỐI
MÁU, TAM HIỆP, BIÊN HOÀ, QUỶ ĐỎ THỊ OAI
Trại Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà được chia ra nhiều Khu với tên
riêng (A, B, C, D…), ngăn cách bởi những hàng rào kẽm gai dầy
chằng chịt, rộng khoảng 10 mét, cao 3 mét.
Các Khu khác th́ không biết sao, trong Khu giam chúng tôi có
khoảng hơn chục căn nhà tiền chế, khung sắt lợp tôn. Vách chung
quanh nhà cũng bằng tôn, chân hổng cao hơn mặt đất khoảng 30
phân. Lưng chừng vách dọc 2 bên hông nhà có các khuôn cửa sổ
rộng khoảng 1 mét vuông, không có cánh cửa. Lối ra vào qua 2 cửa
lớn ở 2 đầu nhà cũng không có cánh cửa. Ở ngoài có thể trông
suốt vào nhà, để quan sát các hoạt động bên trong, qua khoảng hở
dọc bên dưới chân vách, qua các khung cửa sổ, và qua 2 cửa ra
vào lúc nào cũng trống trải.
Chung quanh nhà nào cũng đào một đường rănh, rộng 1 mét, sâu 1
mét, để nước mưa thoát đi không tràn vào nền nhà. Do đó muốn vào
nhà, phải đi qua một mảnh cầu bằng vỉ sắt rộng 50 phân.
Mỗi dẫy nhà được gọi là một Láng, dùng để giam khoảng 50 người.
Mỗi khoảng nằm chia cho một người rộng cỡ 70 phân, vừa đủ trải
một chiếc chiếu cá nhân.
Trong Khu giam chúng tôi, được coi như có 2 phân khu nằm sát bên
nhau, không hàng rào ngăn cách. Khoảng 7 hay 8 Láng nằm kế cận
quanh giếng nước công cộng và hầm vệ sinh lộ thiên, được dùng để
giam các Đại tá, và vài ông Tướng chuyển từ Khám Chí Hoà Saigon
tới. Số Láng c̣n lại ở nửa phần đất phía Tây của Khu, giam các
Trung tá và h́nh như có lẫn cả Thiếu tá, Đại úy. V́ thế trong
Khu chúng tôi có tới 2 dẫy Nhà Bếp riêng rẽ, cách nhau bởi
khoảnh sân tập họp lớn trống trải ngay bên cổng vào. Đồn canh
tại cổng cũng như văn pḥng bên ngoài hàng rào Khu, có thể quan
sát hoạt động trong cả 2 Nhà Bếp, thong thả, rơ ràng, thường
xuyên ngày đêm.
Trong dẫy Nhà Bếp dành riêng cho nhóm Đại tá chúng tôi, có xây
hai hàng ḷ nấu đâu lưng sát bên nhau, dọc suốt bề dài, giữa dẫy
nhà. Trên mỗi lỗ ḷ có để sẵn một chiếc vạc bằng gang rộng 1 mét.
Hai Láng 1 và 2 của chúng tôi ăn chung một hoả đầu vụ. Mỗi “toán
anh nuôi” (hoả đầu vụ) phụ trách nấu cơm và thức ăn cho 2 Nhà,
được xử dụng 3 ḷ sát bên nhau để nấu nướng ngày 2 bữa. Hai ḷ
để nấu cơm và một ḷ để nấu canh. C̣n món mặn th́ dùng soong,
đặt kiềng hoặc kê gạch trước các cửa ḷ nấu cơm mà kho, bằng
than moi từ ḷ nấu cơm ra, sau khi gạo đun đă nở đều và cạn nước.
Những người trong “toán anh nuôi” không phải dân chuyên nghiệp,
mà chính là anh em tù cư ngụ trong 2 Nhà, chia nhau luân phiên
đảm trách. Mỗi nhà phải cử số người cần thiết để lo một ngày.
Thường mỗi “toán anh nuôi” gồm 4 người nấu cơm, 2 người nấu canh
và đồ kho, 4 người đi lănh thực phẩm và bửa củi. Anh em trong
“toán anh nuôi” và “toán bửa củi”, thường được “bồi dưỡng” mỗi
người một ca nước cơm mỗi bữa, gạn từ chảo cơm đă xôi lâu, đang
cạn nước trước khi rút lửa.
Láng chúng tôi nằm sát ngay dọc hông dẫy Nhà Bếp, nên ngày 2
buổi đi lănh cơm, canh, và món mặn về chia nhau, không phải vất
vả khênh khệ nệ đi xa như anh em ở các Láng khác. Gặp những lúc
trời mưa đất trơn trượt, có thể bị té ngă làm văng đổ cơm và
thức ăn ra đất. Đă có Láng bị trường hợp không may này rồi. Thật
là may mắn cho chúng tôi.
Nước dùng nấu ăn, vo gạo, rửa rau, làm cá, rửa soong chảo và đồ
dùng đựng cơm canh chia cho anh em, đều múc ở giếng ngay tại sân
bên cạnh nhà bếp. Nước tắm giặt, có một giếng khác ở phiá Bắc
cuối Khu, gần hàng rào và hố vệ sinh công cộng lộ thiên, giáp
ranh với Khu giam các sĩ quan cấp Úy.
Hố vệ sinh được đào sâu 2 mét, rộng 2 mét, dài 4 mét. Trên ŕa
một bên miệng hố, có để 1 vỉ sắt rộng 50 phân dài 5 mét (loại vỉ
sắt ráp đường bay cho phi trường dă chiến), cho mọi người đứng
hoặc ngồi trên đó mà tiểu hay đại tiện xuống hố. Đây là nơi tập
trung cơ man nào là gịi, và ruồi nhặng. Chúng là đoàn quân xâm
lăng tấn công toàn trại, đặc biệt là các khu nhà bếp, để truyền
giống bệnh thổ tả, kiết lỵ cho Tù nhân.
Nước chín để uống, các Láng giam Đại tá chúng tôi phải sang Nhà
Bếp Trung tá, ở sát bên cạnh để lănh khiêng về phát cho anh em
dùng. Vật dụng dùng khiêng nước, là 1 chiếc lu bằng nhựa ni lông
cao 1 mét, chứa được khoảng 200 lít, cấp riêng cho mỗi Nhà. Mỗi
ngày chỉ được phép qua lănh 2 lần, sáng và chiều, theo giờ quy
định trước.
Muốn vào Nhà Bếp Trung tá, phải đi băng qua chiếc cầu vỉ sắt
rộng 50 phân, bắc ngang một rănh sâu hơn 1 mét, rộng khoảng 4
mét. Do đó, một hôm 2 anh bạn ở Láng chúng Tôi tới phiên phải đi
khiêng nước cho anh em, đă gặp phải tai nạn khủng khiếp.
Mặt vỉ cầu sắt bị nước sóng ra làm trơn trượt. Anh đi trước là
Đại tá Bá Long tự Th́n, chẳng may bị trượt cả 2 chân, té ngồi
phệt đít xuống mặt cầu. Sức nặng của lu nước sôi 200 kílô khiêng
trên vai, đè anh ta giáng bàn tọa xuống mặt vỉ sắt, mạnh đến nỗi
làm bể xương hông không đứng lên được. Anh em phải chạy đến
khiêng đi cấp cứu, may mà không bị phỏng.
Nằm liệt cả tháng không ngồi lên được, thế mà tới ngày anh em
cấp Đại tá bị đưa ra Bắc tập trung, Ban Chỉ huy Trại giam vẫn
buộc anh em khiêng anh ấy ra xe cùng “hành quân”.
Ra đến Liên trại 1, ở xă Việt Cường, Yên Báy, anh Bá Long tự
Th́n vẫn tiếp tục nằm không ngồi lên được. Phân trại cho miễn
lao động và đưa vào nằm điều trị trong Bệnh xá của Liên trại 1,
ngay chỗ ngă ba đường dẫn vào trại Cốc. Khoảng 3 tuần lễ sau,
anh em nghe tin anh Bá Long tự Th́n chết. Theo lời giải thích
của Cán bộ Phân trại trưởng, anh ấy chết v́ nội thương biến
chứng.
Một số anh em, sau 30-4-1975, v́ gia đ́nh thất tán hoặc gặp hoàn
cảnh khó khăn về tiền bạc, không nhận được quà. Trong lúc thiếu
đói đă nẩy sinh một sáng kiến thật độc đáo và đáng thương. Các
anh ấy dù không thuộc “toán anh nuôi”, phụ trách nấu ăn cho anh
em, nhưng ngày nào cũng t́nh nguyện phụ bếp, nhặt rau, mổ bụng
cá đánh vẩy sạch sẽ, rửa các khay tôn đựng cơm sau khi chia xong
c̣n dính cơm. Chỉ với mục đích duy nhất là lượm lặt gom góp các
mẩu rau già, những bộ ḷng cá moi bỏ, và những hạt cơm dính
trong khay tôn, để hầm nấu lại ăn cho đầy bao tử chịu đựng qua
ngày.
Đại tá Nguyễn văn Chung (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn 1 BB) ở
trong một Láng khác, cách Láng chúng tôi khoảng 100 mét. Nghe
anh em đồn có hành động chống đối ǵ đó, nên bị bắt điều tra và
giam giữ trong Conex.
Conex là một loại thùng vuông vắn to khoảng 10 mét khối, làm
bằng kim loại cứng. Quân đội Hoa Kỳ dùng để chứa các vật liệu
nhỏ dễ bị hư hỏng, bởi va chạm mạnh trong khi chuyên chở đi xa,
hoặc cần thả bằng dù từ máy bay xuống cho các đồn bót hẻo lánh.
Conex được coi như là một loại nhà kho dă chiến tư hon không sợ
mưa nắng. Cho nên lúc nào người ta cũng để phơi tênh hênh, giữa
khoảng đất trống không bóng mát. Ban ngày trong Conex nóng như
nung bởi ánh nắng, ngược lại đêm lạnh buốt v́ kim loại tích khí
sương.
Trại giam đă dùng Conex để nhốt tù bị kỷ luật. Thật khủng khiếp
và dă man hết chỗ nói.
Khoảng vài tuần sau khi bị giam trong Conex, anh Chung đă chết.
Trại loan tin là anh ấy tuyệt thực để tự tử. Ai biết đâu? Anh ấy
có thể bị tra tấn đến chết. Cũng có thể anh ấy bị chết ngộp v́
nóng quá, lạnh quá, thiếu dưỡng khí. Cả ngày lẫn đêm, anh em tù
đâu có ai được phép ra khỏi khu giam, léo hảnh đến gần khu làm
việc của Cán bộ đâu mà thấy được.
Sau Tết Bính Th́n-1976, Trại tiếp tục cho Tù gửi thơ về nhà hàng
tháng, để xin tiếp tế tiền và thức ăn khô qua đường Bưu điện.
Thiếu tá Bé (dân pḥng nh́ Tiểu khu) và Đại úy Thịnh (An ninh
quân đội), là 2 người trong số anh em thường được Ban Chỉ huy
Khu giam đem ra ngoài khu, cả ban ngày lẫn ban đêm, phụ trách
việc lựa xếp, lập danh sách thứ tự các gói quà gia đ́nh gửi đến
cho Tù. Để hàng ngày trong giờ làm việc, Cán bộ dùng loa phóng
thanh kêu tên từng nhóm 5 người một, tiếp nối nhau ra tŕnh diện
nhận lănh.
Sau nhiều lần được đưa ra làm việc như vậy, các anh Bé và Thịnh
đă lợi dụng những lúc nghỉ ăn uống, giải lao hút thuốc giữa buổi
lao động, ra ngồi nơi hàng hiên phiá sau kho và văn pḥng Cán bộ
sát bên hàng rào, để quan sát thăm thú địa thế nghiên cứu lối
thoát ra đường.
Thế rồi một hôm, trời mưa gió rả rích suốt ngày đêm không ngưng.
Hai anh Bé và Thịnh cũng được ra khỏi Khu giam làm việc ban đêm
như thường lệ. Đến nửa khuya, trời vẫn mưa âm u mù mịt, lợi dụng
lúc ra hiên sau nhà hút thuốc giải lao, 2 anh đă cùng nhau chui
hàng rào kẽm gai thoát ra ngoài trốn Trại.
Chẳng may, rào kẽm gai có treo lủng lẳng những lon nhôm trống, 1
trong 2 người đă vô ư đụng gây tiếng động. Quân canh nghi có
người vượt rào đă nổ súng bắn theo. Nhờ thời tiết đêm đang mưa
gió mịt mù, ánh đèn điện quanh rào bị những hạt mưa rơi chi chít
phản xạ làm choá mắt, lính gác đứng trên tṛi cao không nh́n
được rơ ràng cảnh vật chung quanh, chỉ hướng về phía có tiếng
động bắn hú hoạ không trúng mục tiêu.
Anh em đang ngủ nghe tiếng súng, giật ḿnh tỉnh giấc hoang mang
chẳng biết chuyện ǵ. Chung quanh láng ngủ, tiếng chân người rầm
rập chạy, ánh đèn pin lia qua lia lại soi dưới rănh quanh nhà.
Đèn điện bật sáng, Quản giáo xộc tới cửa, hối Nhà trưởng kiểm
danh “khẩn trương”. Không ai vắng mặt, Quản giáo bỏ đi. Đến sáng
mới hay tin, đêm qua có người trốn trại.
Hai người trốn đă chạy thoát được ra ngoài vô sự. Nhưng buồn
thay, lưới t́nh báo của Công an Nhân dân dầy đặc, chỉ vài ngày
sau 2 anh Bé và Thịnh đă bị bọn “cách mạng 30 tháng Tư” địa
phương phát giác, bắt và giải nộp cho trại giam.
Ban chỉ huy trại Suối Máu “khẩn trương” thiết lập Toà án quân sự,
ngay tại Hội trường lớn của Trại, ở phía chênh chếch bên hướng
Tây Nam ngoài hàng rào, xa Khu giam chúng tôi khoảng 500 mét, để
đem 2 anh Bé và Thịnh ra xử án TỬ H̀NH.
Ngày xử án, Ban chỉ huy Trại buộc mỗi Láng phải chỉ định một số
người ra tham dự, để chứng kiến tận mắt phiên xử. Ngoài ra, Ban
chỉ huy Trại c̣n mắc nhiều loa lớn, truyền âm thanh ra ngoài
pḥng xử, cho tất cả những Tù khác không bị cử đi tham dự tại
nơi xử án, cũng có thể nghe và theo dơi được những diễn tiến
trong Hội trường nơi xẩy ra phiên xử.
Nhưng, Trời đă không chiều theo ư muốn của bọn Quỷ Đỏ. Suốt buổi
sáng, ṿm trời Suối Máu trong vắt, le lói ánh nắng vàng. Bỗng
dưng một dải mây thành dài đen kịt, hiện ra nơi phía Đông Bắc.
Gió nổi từng cơn liên tục, đưa mây tràn phủ lần lần sang hướng
Tây Nam. Do đó những âm thanh, khuếch đại qua loa phóng thanh,
bị cuốn đi theo chiều gió ra ngoài đồng trống. Anh em trong trại
nghe câu được câu chăng, nên không theo dơi được trọn vẹn những
diễn tiến của phiên xử án.
Những đoạn lơm bơm nghe được, toàn là lời buộc tội của Công tố
viên và Quan toà. Không ai nghe thấy tiếng các bị cáo hay luật
sư bào chữa phản bác lại. Thời gian phiên xử cũng không lâu lắm,
khoảng chừng một tiếng đồng hồ. Sau cùng, những tràng súng oan
nghiệt nổ vang dội khắp vùng Suối Máu, đă báo tin kết thúc phiên
xử. Ôi! Thật là tang thương ai oán biết chừng nào.
Những người tham dự về cho biết. Ngay sau khi Chánh án tuyên bố
án phạt tử h́nh. Các quân canh đứng sát ngay bên 2 anh, lập tức
nhét liền một cục giẻ lớn vào mồm không cho các anh ấy kịp nói.
Rồi họ dùng vải bịt mắt, xốc nách dẫn ngay ra băi đất trống gần
đó, trói vào 2 cọc gỗ đă đóng sẵn, nổ súng liên thanh giết liền.
Có một hiện tượng đặc biệt đă xẩy ra, không một ai bị giam tại
Suối Máu vào lúc ấy có thể quên được. Trời đang trong sáng với
ánh nắng vàng le lói, nhưng đúng lúc sắp tuyên án, gió lộng ào
ào liên tục mạnh hơn, kéo mây phủ kín cả bầu Trời. Cảnh vật Suối
Máu tối xầm hẳn xuống.
Đúng vào lúc mọi người rợn ḿnh nghe tiếng những tràng đạn nổ,
cướp đi đời sống của 2 Dũng sĩ Việt Nam Cộng Hoà, th́ Trời cũng
đổ ào xuống một cơn mưa mau nặng hạt.
Mưa gơ rào rào trên các mái tôn, như muốn khoả lấp không cho anh
em Tù, đang nh́n nhau nghẹn ngào rưng rưng lệ, phải nghe tiếng
vang oan nghiệt của những tràng đạn, do bọn Qủy Đỏ đang reo họa
trên mảnh đất miền Nam thân yêu, của ḍng giống Tiên Rồng Lạc
Việt.
Mái tôn mưa gơ rào rào,
Luồn chân vách hổng, th́ thào gió ru.
À ơi ! Thương kiếp sống tù,
Một ngày trong khám, thiên thu ngoài đời.
Bắc, Nam, chung một giống ṇi,
U mê theo quỷ vô loài diệt nhau.
Chung quy chỉ Mẹ Việt đau,
Quê hương ngút lửa, máu đào tràn sông.
Thây dân vô tội đầy đồng,
Tha hồ Việt cộng dâng công tế Thầy*. (*Liên sô)
Non sông gấm vóc từ đây,
Thành nhà tù lớn, vũng lầy khổ đau.
Coong! Coong! cồng điểm canh thâu,
Đùng đùng đạn nổ, hay đâu chuyện ǵ?
Rầng rầng bộ đội bủa đi,
Ào vô xục xạo, súng gh́, đèn soi.
Bàng hoàng lưng vă mồ hôi,
Ngỡ rằng Thần Chết đến nơi gọi hồn.
Lệ Trời, tuôn lúc mau hơn,
Rào rào gió thổi từng cơn lạnh lùng.
B́nh minh rồn rập tin hung :
“Đêm qua có kẻ mánh mung vượt rào.
Thiên la Địa vơng vây bao,
Lưới Công an đặc, thoát sao khỏi ṿng?”
Biết rằng đường lắm gai chông,
Cặp tù : Thịnh, Bé, vẫn không ngại ngùng.
Quyết tâm thoát cảnh ngục trung,
Tung hoành cho thoả chí hùng thuở nao.
Phục thay gan dạ anh hào,
Coi đời như giấc chiêm bao vắn dài.
Nhịp tù tiếp tục trôi xuôi,
Bỗng dưng thấy Cán dẫn đôi tù về.
Mây chiều ảm đạm lê thê,
Mạch tim quặn thắt, tái tê cơi ḷng.
Oan khiên, chẳng thoát tử vong,
Qủy đang đợi dịp thi công hại người.
Thị oai cho cả trong ngoài,
Thấy quyền sinh sát, gương soi tỏ tường.
Lập Toà tuyên xử “khẩn trương”,
Tha hồ ác tặc ôn vương đóng tṛ.
Tử h́nh án trữ đầy kho,
Mặc t́nh xử dụng chẳng lo thiếu phần.
Nhân danh đại diện nhân dân,
Diệt trừ giai cấp đâu cần đắn đo.
Theo gương Trung Cộng, Liên Xô,
Không theo chủ nghĩa Tam Vô là thù.
Không theo Cách mạng mùa Thu,
Thành phần đối lập khử trừ thẳng tay.
Yêu tinh hiện giữa ban ngày,
Hại người yêu nước, Trời hay chăng Trời ?
Rào rào gió giục mưa rơi,
Thấm ḷng đất Việt, máu người Việt Nam.
Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà, Tháng 4-1976.