Nguyễn Huy Hùng
Chương 4
MỘT THÁNG HỌC LÀM NGƯỜI XĂ
HỘI CHỦ NGHĨA
Tờ mờ sáng 16-6-1975, đoàn xe chở các Tướng và anh em Đại tá chúng
tôi đến Trại Long Giao, Long Khánh. Nhưng xe chở Đội chúng tôi không
vào qua cổng trại, mà đậu phiá ngoài rào kẽm gai phía Tây, tại một
chỗ có khúc rào bị phá xập. Trời c̣n tối mù, đặc hơi sương, mọi
người xuống xe, vác hành trang riêng ṃ mẫm leo qua kẽm gai, vào mấy
căn nhà tiền chế bằng tôn. Trời sáng dần, mờ mờ qua làn sương, thấy
dọc bờ rào cách những dẫy nhà khoảng vài trăm mét, có mấy ụ đất xây
hầm bê tông cốt sắt chứa đạn và lựu đạn, của đơn vị Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà (QLVNCH) để lại chưa kịp phá hủy.
Trong khi chờ các Đội trưởng theo Cán bộ đi nhận nhà ở cho từng Đội,
một số trong anh em chúng tôi bủa đi lùng nhặt Gamen, muổng, niă, Ca
uống nước, Bi đông đựng nước bằng nhôm, vứt bừa băi quanh nhà, trong
các đống rác, để rửa sạch mà dùng. V́ những bạn này cứ tưởng, theo
thông cáo của Nhà nước đi học tập đóng tiền ăn cho nhà thầu nấu
nướng, th́ đương nhiên nhà thầu phải cung cấp đủ thứ, y như 3 ngày
vừa qua tập trung tại Đại học xá Minh Mạng, nên không đem theo đồ
dùng. Có người chậm hiểu, không thức tỉnh sớm, đến bữa ăn đầu tiên
tại trại tập trung không có đồ dùng để ăn, mới quưnh lên, vội vă lấy
ḿ gói ăn liền đem theo, năn nỉ xin đổi lấy Ca, Gamen, muổng, niă,
từ những bạn nhặt được nhiều không dùng hết.
Đội của Tôi được chia một dẫy nhà tôn tiền chế, gần “nhà bếp 2” dành
riêng cho khu giam Đại tá. Nhà được dựng trên nền xi măng cao hơn
mặt đất chừng 20 phân. Nhà thuộc loại kho chứa vật liệu, không có
cửa sổ dọc 2 bên hông, chỉ có 2 lối ra vào ở 2 đầu nhà, cánh cửa đă
bị gỡ mất. Một vài miếng tôn làm tường, dọc 2 bên hông nhà cũng đă
bị gỡ mất. Chúng tôi phải chia nhau đi t́m những miếng tôn, cong
rách vứt gần mấy đống rác, đem về đập thẳng ra để cột chám vào mấy
chỗ trống cho kín gió, cản sương đêm, và ngừa mưa tạt. Tôn trên mái
nhà cũng có nhiều lỗ thủng, không có thang để leo lên chám, đành để
vậy. Ai xui xẻo nằm đúng chỗ dột, chỉ c̣n cách trải áo mưa hoặc
miếng ni lông choàng thay áo mưa, lên trên nóc mùng (màn) mà hứng
nước chịu trận. Chung quanh nhà không có cây cao tàn lá cho bóng mát,
nên ở trong nhà ban ngày nóng như bị nung trong ḷ lửa. Ngược lại,
ban đêm lạnh toát như nằm trong hầm chứa nước đá.
Trong lúc đi kiếm vật liệu gần bờ rào, quanh các dẫy nhà khác, Tôi
t́nh cờ gặp Đại tá Phạm văn Cảm, đang đứng tựa bên vách đầu nhà của
một Đội khác. Tôi đến gần chào, ông đă già lụ khụ mắt kém, nhưng vẫn
nhận ra Tôi, bắt tay thăm hỏi thật thân thiện. Ông đă giải ngũ từ
thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm (Đệ nhất Cộng hoà), mà cũng phải đi
tŕnh diện tập trung cải tạo. Tôi biết Đại tá Cảm từ tháng 6 năm
1949, khi Tôi mới tốt nghiệp Thiếu úy Trường Vơ bị Quốc gia được
thuyên chuyển về Đại đội 2 Tiểu đoàn 2 VN tại Hànội. Lúc đó, Đại tá
Cảm nguyên là Trung úy bên Quân đội Liên hiệp Pháp, chuyển sang Quân
đội Quốc gia Việt Nam được thăng lên cấp Đại úy, làm Đại đội trưởng
Đại đội 1 của Tiểu đoàn 2 Việt Nam, do Thiếu tá Vũ văn Thụ làm Tiểu
đoàn trưởng (sau này ông Thụ được thăng lên đến cấp Đại tá làm Tham
mưu trưởng Đệ tam Quân khu tại Hànội một thời gian).
Theo truyền thống xă giao của Sĩ quan đă được hướng dẫn trong Trường
Vơ bị, sau khi tŕnh diện Tiểu đoàn trưởng, Tôi đă đi tŕnh diện
thăm xă giao các Đại đội trưởng. Do đó với tư cách Sĩ quan đàn anh
trong Tiểu đoàn, Đại úy Cảm đă mời Tôi đến nhà đăi một bữa ăn tối
thật thân mật, đầm ấm không khí gia đ́nh, do chính Phu nhân Đại úy
Cảm sửa soạn. Tôi không bao giờ quên cảm t́nh đặc biệt đó. Trong bữa
ăn có cả Thiếu úy Bùi Đ́nh Đạm, cùng tốt nghiệp một khoá với Tôi,
được bổ nhiệm về Đại đội 1 của Đại úy Cảm.
Sau cuộc di cư từ Bắc vào Nam theo quy định của Hiệp định Genève
tháng 7 năm 1954, Đại tá Cảm được Tướng Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn
văn Hinh chỉ định làm Chỉ huy trưởng trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức.
Một thời gian sau, theo kế hoạch trẻ trung hoá Quân đội, Tổng thống
Diệm cho giải ngũ cùng một lượt với nhiều sĩ quan khác, trước kia do
Pháp chuyển từ các đơn vị thuộc đoàn quân Liên Hiệp Pháp thành lập,
qua Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Trong khi Đại tá Cảm làm Chỉ huy trưởng Trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ
Đức, th́ Thiếu tá Bùi Đ́nh Đạm làm Tham mưu trưởng của trường. Sau
này anh Đạm lên đến cấp Thiếu tướng trong QLVNCH. Trong thời Đệ nhất
Cộng hoà được Tổng thống Diệm cử làm Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đóng
tại Mỹ Tho. Trước 30 tháng 4 năm 1975, anh Đạm làm Giám đốc Nha Động
viên Bộ Quốc pḥng tại Saigon, hiện đang định cư tỵ nạn tại
California.
Lúc bữa ăn gần tàn, Đại úy Cảm giới thiệu Tôi với người con trai
Phạm Tất Thông vừa đi học về. Sau này anh Thông cũng theo học Trường
Vơ bị Quốc gia Việt Nam tại Đà Lạt, và trước 30-4-1975 là Đại tá
ngành Quân Cụ, hiện cũng đang định cư tỵ nạn tại California.
Thật tội nghiệp, mặc dù Đại tá Cảm đă già yếu, đang bị bệnh trĩ rất
nặng, ḷi ra khỏi hậu môn cả 10 phân, không mặc được quần, phải mặc
áo choàng dài đến đầu gối cả ngày đêm, nằm ngủ trên vơng vải, thế mà
cũng bị buộc phải đi tập trung tại Long Giao.
Vài ngày sau Đại tá Cảm được đưa lên Bệnh xá của trại tập trung.
Khoảng một tháng sau, lại có tin Đại tá Cảm đă được thả về nhà không
phải cải tạo, nhờ lượng khoan hồng nhân đạo của Chính phủ Cách mạng
Lâm thời tại miền Nam VN, đối với những người già nua bệnh hoạn măn
tính nặng. Được tin này, mọi người hân hoan mừng rỡ, chia sẻ nỗi vui
may mắn của Đại tá Cảm và gia đ́nh.
Long Giao là doanh trại do Đơn vị Pháo binh Không kỵ Hoa Kỳ xây dựng,
khi rút đi để lại cho QLVNCH. Theo giải thích của Đại tá Bùi Đức
Điềm (đang tỵ nạn tại California) nguyên Tỉnh trưởng Long Khánh th́,
LONG GIAO là một đại danh từ ghép, lấy từ 2 chữ đầu của “LONG Khánh”
và “GIAO hảo” với Hoa Kỳ, mà đặt ra. Đơn vị QLVNCH sau cùng đóng tại
trại này, là Trung Đoàn 14 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ binh.
Nhà cửa bị tàn phá hư hao nhiều, cỏ dại, cây gai mọc loạn xà ngầu,
phủ kín cả đường đi, sát tận quanh nhà, trên rào kẽm gai, cần phải
dọn dẹp, tu sửa chỉnh trang lại th́ mới ở được. Trại không cung cấp
cuốc, xẻng, dao, búa, ḱm chi cả, mà lại ra lệnh chia khu cho các
Đội làm sạch sẽ. Thật là vạn nan, với 2 bàn tay không anh em vẫn
phải “khắc phục” thi hành lệnh.
Một anh Đại tá trong Đội chúng tôi, vốn gốc Công binh, đưa sáng kiến
đề nghị cán bộ cho dùng gỗ đốt nung các cọc sắt rào kẽm gai đỏ lên,
đập bẹt 1 đầu làm xẻng, và uốn cong 1 khúc theo h́nh góc thước thợ
làm cuốc. Cán bộ chấp thuận cho phép thực hiện để dùng đỡ, trong khi
chờ trại xin cấp trên tiếp tế dụng cụ làm nông nghiệp. Thật rơ ràng
“lao động là sáng tạo”, đúng như quy luật “đỉnh cao trí tuệ Cách
mạng” đă khẳng định.
Trong thời gian dọn dẹp rác rến, phát cây rẫy cỏ hoang riêng trong
từng khu, đă xẩy ra một tai nạn khủng khiếp chẳng bao giờ quên được.
Trong giờ nghỉ trưa, bên phiá khu giam anh em cấp úy, bỗng dưng có
một tiếng nổ long trời dậy đất. Chúng tôi đang nghỉ trưa, giật ḿnh
hoảng hốt uà ra trước cửa láng ở, quan sát nghe ngóng coi việc ǵ
xẩy ra.
Thấy Bộ đội cảnh vệ cầm súng chạy túa đi các ngả đường, đến vị trí
pḥng thủ. Một ư nghĩ chợt loé ra trong đầu Tôi. Không lẽ có biến
động phá trại giam để giải thoát Tù? Trường hợp này th́ ḿnh phải
làm ǵ? Có nên bàn với các bạn chuẩn bị hành động ǵ không? Bao
nhiêu câu hỏi nẩy ra trong đầu, y như hồi đang thụ huấn tại trường
Vơ bị, trong giai đoạn cá nhân và Tiểu đội chuẩn bị tiến thối trong
tác chiến vậy. Suy nghĩ như vậy, nhưng chỉ giữ kín cho riêng ḿnh,
không giám thổ lộ với ai cả. Hoàn cảnh giao thời này, biết ai là
“cách mạng 30 tháng tư” trà trộn trong anh em. Lỡ thố lộ gặp nhằm
“qủy đón gió trở cờ”, không những mang họa vào thân, mà c̣n có thể
liên lụy cho vợ con ở nhà, th́ sẽ phải ân hận suốt đời.
Mọi người c̣n đang ngơ ngác nh́n quanh, Quản giáo Đội chúng tôi tới
đuổi vào nhà, không được nhốn nháo mất trật tự. Mấy giờ sau được
tin, có anh bạn Tù bên khu cấp Úy bị trọng thương, v́ lựu đạn nổ
trong hầm ụ đất cấm lai văng. Những ngày kế theo, anh em x́ xào
nhiều tin tức khác nhau, không biết tin nào đúng. Có tin cho là anh
ấy phải dọn hầm đạn, chẳng may làm rớt thùng lựu đạn nổ. Có tin cho
là anh ấy tự tử, để chống đối cách cư xử nghiệt ngă của trại tập
trung. Có tin cho là anh ấy vượt rào trốn trại đạp phải ḿn. V́
trong t́nh trạng phải sống cách ly, người khác Láng ở không được
liên hệ với nhau, vi phạm sẽ bị kỷ luật nặng, nên không kiểm chứng
được. Bây giờ, chỉ có bạn nào đă cùng bị giam chung với anh bạn
không may kia đang c̣n sống kể lại, th́ sự thật mới được phô bầy
chính xác.
Ít ngày sau, bỗng một hôm lại nghe nhiều tiếng súng nhát gừng, rồi
liên thanh vang dội tít ngoài rừng xa, anh em cũng ngơ ngác nh́n
nhau hồi hộp. Sáng hôm sau, khi “toán anh nuôi” của Đội chúng tôi,
đi lănh thực phẩm ngoài cổng trại về, cho hay là có mấy anh em bên
khu cấp Úy, hàng ngày được dẫn đi đốn củi cung cấp cho các nhà bếp
của trại, đă cướp súng trốn trại.
Sau khi dọn dẹp các bờ bụi, rác rến sạch sẽ, anh em được chia khu
đất trước các dẫy nhà ra sát tới hàng rào kẽm gai, cuốc lên đắp
luống trồng khoai ḿ (sắn). Hơn tháng sau, khoai ḿ bắt đầu vươn lên
thành những luống cây xanh mướt, trông cũng thấy mát con mắt.
Nước ăn uống, tắm giặt, trong khu Đại tá chúng tôi có 1 giếng đào,
miệng giếng rộng hơn 1 mét, sâu 25 mét, phải dùng gầu làm bằng can
đựng xăng loại 20 lít cột vào đầu sợi cáp dài 50 mét, để tḥng xuống
múc nước kéo lên. Ưu tiên phải dành cho toán kéo nước phục vụ nhà
bếp, lấy đủ 40 thùng phuy 200 lít một ngày xong, mới tới phần anh em
kéo nước dùng riêng.
Mỗi toán kéo nước gồm 4 người. Hai người cầm đầu dây cáp đứng cách
xa miệng giếng 50 mét, đi tới đi lui thả gầu xuống kéo gầu lên, theo
hiệu lệnh của 2 người đứng sát miệng giếng điều khiển. Hai người
đứng bên miệng giếng, có trách nhiệm bê gầu nước đầy vừa kéo lên, đổ
vào 2 thùng phuy đặt trên xe cải tiến. Khi nào cả 2 thùng đầy ặp th́
ngưng kéo nước, cả 4 tụm lại hiệp sức đẩy về nhà bếp đổ vào hồ chứa.
Trong thời gian toán kéo nước nhà bếp rời xa giếng, mọi người được
phép tranh nhau, thả gầu nhỏ cá nhân xuống giếng kéo nước lên dùng
riêng, cho đến khi toán nhà bếp trở ra, lại phải ngưng để nhường chỗ
cho họ, tiếp tục quyền ưu tiên làm “phận sự phục vụ tập thể”.
Đây là vùng đất sét pha cát, vào mùa nắng đất khô, đi tới đi lui g̣
lưng kéo nước c̣n dễ dàng, nhưng tới mùa mưa th́ ôi thôi thật là
muôn phần khó khăn. Đất trơn trợt, phải cúi gục người về phiá trước,
bấm sâu các đầu ngón chân xuống đất để đi tới mà kéo nuớc lên, thỉnh
thoảng vẫn bị trượt chân ngă chúi về phiá trước, mặt vập xuống đớp
đầy mồm đất và nước bùn.
Mùa nắng cũng như mùa mưa, nhóm kéo nước bao giờ cũng phải xoay trần,
chỉ mặc có một chiếc quần ngắn, mà mồ hôi lúc nào cũng nhễ nhại như
tắm. Đổi lại sự cực nhọc này, cán bộ “chỉ đạo” cho “toán anh nuôi”,
cấp thêm cho mỗi người trong nhóm kéo nước và nhóm bửa củi cho nhà
bếp, mỗi bữa một miếng cơm cháy lớn bằng bàn tay, để gọi là “bồi
dưỡng”.
Để áp dụng luật công bằng theo Xă hội chủ nghĩa, những đội ăn chung
trong một bếp, được chỉ định luân phiên nhau phụ trách làm “ đội anh
nuôi” một ngày. Trong những ngày này, anh em trong Đội phải chia
nhau thành các toán : đi lănh gạo và thực phẩm tươi, nấu cơm, thức
ăn và chia ra từng mâm 6 người riêng theo từng Đội, bửa củi, kéo
nước.
Thực đơn ăn hàng ngày, ghi trên bảng thông báo để tại nhà bếp thấy
mà ham. Nào là cơm gạo Đại Mễ, canh rau, thịt kho. Nhưng thực tế
thiểu năo vô cùng.
Gạo Đại Mễ do Trung cộng cấp cho Việt cộng tích trữ trong rừng để
xâm lăng miền Nam, nay lấy về cung cấp cho tù tập trung ăn. Gạo để
lâu ngày dưới hầm trong rừng đă mục nát, bao thủng bị trộn đầy sạn
cát và sâu, mọt, xúc đóng vào bao mới. Nấu thành cơm ăn hôi, nhăo,
phải xúc từng muổng nhỏ bỏ vào miệng trệu trạo qua loa rồi nuốt,
không dám nhai v́ đụng sạn ghê răng.
Canh rau, mỗi người được đôi ba cọng rau muống, hoặc vài lát cải
xanh nấu với nước muối lơng bơng. Thịt kho, th́ một con gà nặng
chừng 2 kí lô cân cả lông, hoặc 1 hộp thịt ḅ 1 kí lô, nấu cho
khoảng 150 người dùng 2 bữa. Toán “anh nuôi” phải vận dụng trí thông
minh, làm sạch lông gà xong, bằm nhuyễn cả xương, thả vào bung nước
muối cho thật nhừ. Lúc chia cho các mâm ăn từng 6 người một, phải
dùng muôi khoắng quậy đều, múc cả nước lẫn cái. Mỗi mâm được 6 muôi,
tức là mỗi người được khoảng 2 muổng húp canh cá nhân. Thịt ḅ hộp
cũng vậy, đổ ra khỏi hộp, bằm nhuyễn, thả vào kho nước muối lơng
bơng, rồi chia y như chia thịt gà kho.
Mùa nắng giếng cạn, nước khan hiếm, việc tắm giặt, giữ vệ sinh cá
nhân hàng ngày là một vấn nạn lớn cho mọi người. Để “khắc phục”, Tôi
đă nghĩ ra được kỹ thuật tắm gội có dùng xà bông, tốn ít nước, một
cách tuyệt vời. Chỉ cần 1 thùng đạn 30 ly đầy 2 lít nước là đủ. Chắc
trên trái đất này, chưa có một nhà bác học nào có thể nghĩ ra được.
Bỏ hết quần áo ra, ngồi chồm hổm trên 1 miếng tôn hay miếng ván mỏng,
tay phải múc một ca nước đưa lên đỉnh đầu, từ từ xối nước xuống ,
trong khi đó tay kia xoa nhè nhẹ cho nước thấm ướt hết tóc, rồi lần
theo nước chẩy xuống đến đâu th́ xoa tay theo tới đó, đến khi cả
người từ đầu đến chân ướt đều th́ ngưng. Tiếp theo, lấy Xà bông chà
lên tóc, dùng 2 tay chà cho xà bông nổi bọt để gội đầu, rồi từ từ
xoa cho bọt xà bông chẩy xuống mặt, cổ, vai, ḿnh … y như làm động
tác xoa nước cho ướt ḿnh vậy. Khi toàn thân được chà xà bông kỹ
càng, lại lấy ca nước sạch từ từ dội từ đỉnh đầu, xoa kỳ cho tóc
sạch hết xà bông. Và cứ tiếp tục làm như vậy bằng từng ca nước một,
lần lần xuống mặt, cổ, vai, ḿnh, tay, chân. Khi dùng tới ca nước
cuối cùng là bảo đảm người hoàn toàn sạch sẽ.
Muốn biết lời Tôi nói có đúng không, xin làm thử một lần sẽ biết. Dĩ
nhiên cần phải kiên nhẫn, tập trung tư tưởng ghê gớm lắm mới làm
được. Ở trong t́nh trạng đợi học tập, không phải ra ngoài lao động,
nên có ǵ vội vă đâu, đây cũng là một hành động thú vị để giết th́
giờ buồn nản.
Ba tháng cay đắng cực khổ, đă chậm chạp trôi qua. Vẫn chưa nghe động
tĩnh ǵ về việc tổ chức học tập quy củ, để trở thành người lao động
Xă hội chủ nghiă cả. Phải chăng đây mới chỉ là giai đoạn thử thách
ban đầu, trước khi chính thức bước vào học tập cải tạo thực sự. Nếu
đúng vậy th́, chẳng biết sẽ c̣n phải chịu cực nhục đói khổ đến mức
nào? Cái thông báo của Nhà Nước đi học tập một tháng, chẳng c̣n giá
trị ǵ. Đúng là xảo quyệt lừa lọc loát khoét như Vẹm (Việt Minh).
Long Giao vốn trại của
Ta,
Ngày nay đời đổi hóa ra làng tù.
Lâu ngày chẳng được trùng tu,
Tan hoang nên phải lu bu sửa hoài.
Tay không bứt cỏ, bẻ gai,
Nhổ tranh, bới đất trồng khoai, trồng ḿ.
Đá xanh vun đắp lối đi,
Sửa nhà, dựng vách pḥng khi đổi mùa.
Tiết Trời đang chuyển sang mưa,
Nắng ngày gay gắt, sương khuya lạnh lùng.
Tập trung đủ mặt anh hùng,
Tùy theo cấp bậc, nhốt từng khu riêng.
Nấu ăn, chia đội luân phiên,
Mỗi khu hỏa vụ lo trên trăm người.
Nước dùng, kéo đáy giếng khơi,
Mỗi ngày lănh gạo, đồ tươi về làm.
Thực đơn nghe báo mà ham,
Nay gà, mai lợn, mốt tôm, kia ḅ.
Lănh về ai nấy ngẩn ngơ,
Con gà hai kí phát cho trăm người.
Vứt lông, bầm nát xong xuôi,
Nêm tiêu, xả, muối, bỏ nồi nước ninh.
Lúc chia vận trí thông minh,
Khuắng đều cái nước như śnh múc ra.
Người hai muổng xả kho gà,
Trộn cơm Đại Mễ ăn mà độ thân.
Đổi đời phải luyện tập dần,
Miếng ăn ít ỏi, chia phân đồng đều.
Nếu không kẻ ít người nhiều,
Lời qua tiếng lại, sinh điều chẳng hay.
Ngày ngày khắc vạch lên cây,
Đếm dư trăm ngấn mà Thầy chửa ra.
Hẳn là phải đợi đến già,
Chờ hồi xương mục, chẳng tha cũng về.
Long Giao, Long Khánh, Tháng 9-1975
C̣n tiếp... |