Chương 35
KHÚC QUANH SAU CÙNG
CỦA ĐẠI NẠN CẢI TẠO trong
Hồi
Ức Tù Cải Tạo Việt Nam
Nguyễn Huy Hùng
Ngày “ra quân đầu năm Bính Dần-1986”, ngoại trừ mấy anh tiếp tục
tưới những luống rau chưa “thâu hoạch”, toàn Đội 23 chúng tôi phải
tập trung dựng 2 giàn bầu, ở 2 bên đầu cầu trước khu Nhà Thăm Nuôi
mới, dài 50 mét, rộng 10 mét, để phủ kín từ bờ này sang bờ kia khúc
sông cạn. Quản giáo Đội cho biết, “Ban” Nhu muốn công tác phải giải
quyết “khẩn trương” trong ṿng 1 tuần lễ, để kịp “hạ thổ” các cây
bầu giống, do anh Dương hiếu Nghĩa (Đại tá Thiết giáp) ương từ trước
Tết, nay đă đủ sức mạnh đâm rễ xuống đất và tăng trưởng ngọn leo lên
giàn. Hẳn là sắp có nhu cầu tŕnh diễn, nên “Ban” Nhu Trưởng Trại
Z30D mới quy định kỳ hạn, cho Đội chúng tôi phải hoàn tất công tác
như vậy.
Chiều ngày mồng 2 Tết, Đội Lâm Nghiệp đă chặt tre rừng, và xe tải
của Trại đă chuyển đến, đổ xuống khoảng đất trống trước sân khu Nhà
Thăm Nuôi, một đống cao lù lù, nhiều hơn nhu cầu. Ngày mồng 3 “ra
quân”, Đội chúng tôi chỉ việc hiệp nhau lựa cây, sắp xếp trôn cột,
ráp nối đóng khung, gác buộc giàn ô vuông cỡ 4 tấc như quy định.
Ngày nào “Ban” Nhu cũng ghé qua xem tiến triển công tác, và góp ư
kiến hướng dẫn cho việc thực hiện được đúng như “Ban” muốn. Chúng
tôi chỉ mất có 4 ngày, đă làm xong 2 giàn bầu rất đẹp mắt, trông như
2 cánh của con chuồn chuồn. Đầu chuồn chuồn là ḥn đảo có 2 dẫy Nhà
Thăm Nuôi với các bồn bông, thân chuồn chuồn là chiếc cầu gỗ ở giữa
2 giàn bầu, và đuôi chuồn chuồn là con đường dài từ cầu dẫn ra Vườn
Tao Ngộ.
“Ban” Nhu rất ngạc nhiên, tấm tắc khen chúng tôi giỏi, việc ǵ làm
cũng rất thông thạo, kỹ càng, mỹ thuật. Những lời nhận xét này, được
“Ban” Nhu nhắc đi nhắc lại trước các đoàn “tham quan”, như cố ư khoe
cái tài của ông ấy cải tạo các Đại tá Chế độ cũ, trở nên người lao
động Xă hội Chủ nghĩa thành thạo. Nhưng, các phái đoàn Trung ương và
địa phương tới Trại Z30D “tham quan” đâu có biết. Những năm
1976-1977 ở Liên trại 1, xă Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, do
Bộ đội Cộng sản Bắc Việt quản lư, anh em chúng tôi đă phải lên rừng,
chặt tre, đốn gỗ về làm nhà, làm hàng rào để giam chính bản thân
ḿnh, làm cơ sở Văn pḥng cho Ban Chỉ huy trại và nhà cho Bộ đội
canh gác Tù ở đă quen, nên bây giờ mọi việc mới thực hiện được dễ
dàng nhanh chóng, chẳng bỡ ngỡ khó khăn ǵ.
Dựng giàn bầu xong, anh em chúng tôi phải cải tiến tổ chức Đội, phân
công lại, để hoàn thành “chỉ tiêu thi đua” sản xuất Rau Xanh quy
định cho năm 1986, cao hơn năm cũ, nhưng không tăng cường nhân số.
Chúng tôi biết trong số Tù Nam giam tại K1, cũng có bạn Tù cấp bậc
Đại tá trong vài Đội khác, không biết v́ sao các bạn ấy không được
tập trung vào cùng Đội với chúng tôi.
Nhờ mớ kinh nghiệm thực tế, học được trong thời gian trồng rau bên
Z30C, tại Z30D, câu phương châm đầu môi chót lưỡi của Cách mạng Vô
sản, phải nghe thường ngày như kinh nhật tụng, suốt hơn mười năm cải
tạo : “Nhất nước, nh́ phân, tam cần, tứ giống”, và dựa theo khả năng
sức khoẻ của mỗi người, anh em chúng tôi đồng thoả thuận chia thành
những nhóm, phụ trách các phần vụ chuyên biệt khác nhau.
Nhóm lo trồng 3 vạt ớt, săn sóc chục cây đu đủ, các bụi chuối, giàn
nho, vườn hoa quanh Khu Nhà Thăm Nuôi và dọc đường 2 bên bờ sông,
không cần sức nhiều, giao cho Linh mục Bùi đức Sinh và các anh Đại
tá Nguyễn văn Phúc (Chiến tranh Chính trị), Lại đức Nhi (An ninh
Quân đội) phụ trách. Riêng vạt ớt của Linh mục Sinh ở ngay 2 bên đầu
cầu trước khu Nhà Thăm Nuôi, hàng ngày được anh Đại tá Nguyễn quốc
Quỳnh (Chiến tranh Chính trị) Đội trưởng, tự nguyện phụ giúp gánh
nước tưới, nên cây lúc nào cũng xanh tốt xum xuê sai trái hơn 2 vạt
kia.
Hai giàn bầu gồm hơn chục gốc, trồng dài 2 bên đầu cầu, như mái che
mưa nắng cho khúc sông cạn trước Khu Nhà Thăm Nuôi, do một ḿnh anh
Nghĩa chăm lo. Anh ấy tự nguyện nhận lănh, v́ được chỉ định ở cả
ngày lẫn đêm ngoài Nhà Lô với anh Đại tá Tô văn Vân và Quản giáo Đội,
không bị lệ thuộc vào giờ giấc ra vào Trại, nên có thể thủng thẳng
chăm sóc tưới tắm lúc nào cũng tiện. Ngoài ra, anh Nghĩa c̣n phụ
trách thêm việc phun thuốc trừ sâu cho các luống rau, một lần cho
mỗi đợt mới trồng, khi tới kỳ bén rễ bốc mạnh.
Nhóm làm luống vô phân và gánh nước tưới, do các bạn Đại tá Phạm chí
Kim, Đỗ văn Sáu, Trịnh đ́nh Đăng, Trần văn Thăng, Phạm tài Điệt,
Trần kim Hoa, c̣n tương đối khoẻ phụ trách. Đây là nhóm nỗ lực chính
của công tác trồng rau. Để mọi người cùng vui vẻ, anh em được quyền
tự nguyện nhận tưới một số luống rau tùy theo khả năng của ḿnh, ít
nhất cũng là 6 luống, nhiều nhất là 8 luống.
Hạt Giống, qua những mẩu chuyện trao đổi giữa Cán bộ Quản giáo Đội
và “Ban” Nhu lúc ghé thăm Đội, anh em biết là anh Quỳnh Đội trưởng
đă tự nguyện, nhờ gia đ́nh đến các vựa rau quanh Saigon, mua gửi lên
cho Trại 3 loại hạt Giống (rau muống, cải củ, cải bẹ xanh) nhập cảng
từ Đài Loan rất tốt. Nhờ thế, kết quả sản lượng rau “thâu hoạch” của
Đội bao giờ cũng cao.
Phân bón “cơ bản chủ yếu” là phân ḅ, đi lấy một tuần lễ 2 lần, tại
chuồng nuôi ḅ cả trăm con trong Phân trại K2, cách “hiện trường lao
động” của Đội chúng tôi khoảng hơn 3 cây số. Chúng tôi phải đánh xe
ḅ vào, tự vét lấy đổ lên xe chuyển về, tích thành đống lớn để trộn
lẫn với phân Bắc dùng dần. V́ thế, ruồi nhặng xâm lăng Khu Nhà Thăm
Nuôi đông đến nỗi, các gia đ́nh “thăm nuôi” phải giăng mùng, ngồi
trong giường ngủ để ăn cơm giữa ban ngày. Phân Bắc là phân người, do
một bạn tù chuyên đánh xe ḅ đi lấy hàng ngày, từ các pḥng giam Tù
trong trại giam chuyển tới, đổ cho Đội mỗi tuần lễ một xe, để bằm
trộn lẫn với phân ḅ bón lót trong luống trước khi reo hạt rau.
Muốn cho ớt có trái lớn và hương vị thật cay, Đội được phép đi lấy
mỗi tuần lễ 1 xe ḅ phân gàø, ở khu Đội Nuôi Gà về trộn lẫn với phân
ḅ để bón.
Phân hoá học cũng được dùng để hoà vào nước tưới, thúc cho rau bốc
nhanh sau khi đă tỉa bớt và vun gốc. Phân hoá học do Cán bộ Quản
giáo dẫn Đội phó đi lănh hàng tháng về tồn trữ tại Nhà Lô Đội, phát
lần cho các bạn phụ trách tưới các luống rau xử dụng.
Anh Nguyễn văn Sáu (Trung tá Biệt động quân) Đội phó và Tôi, ngoài
nhiệm vụ xẻ rănh, vào phân, reo hạt, tỉa xới vun gốc rau, c̣n là
nhóm lo chở phân, và chuyển vận nộp rau cho Nhà Bếp trại. Một tuần
lễ 3 lần đi lấy phân và 2 lần chuyển rau. Tôi là chuyên viên đánh xe
ḅ. Khi nào Vợ Con tới “thăm nuôi”, Tôi được nghỉ lao động, anh
Quỳnh Đội trưởng phải đánh xe thay thế, v́ anh Sáu không điều khiển
được ḅ.
Vào những ngày đi lấy phân ḅ, anh Sáu Đội phó dẫn 3 người xuất trại
trước, vào K2 để lo vét vun phân thành từng đống lớn. Sau khi Đội
xuất trại ra đến Nhà Lô, Tôi đi một ḿnh sang khu gần bên Đội Nuôi
Gà, dắt ḅ về Đội, mắc vào xe, rồi đánh thẳng vào K2. Thoạt đầu vào
nghề đánh xe ḅ, Tôi gặp nhiều vất vả với con ḅ non mới tập bắt kéo
xe này. Nó vùng vằng không chịu lùi đít vào giữa 2 càng xe, để ḿnh
đặt vai kéo xe lên sống gáy cổ nó, hoặc mới đặt xong chưa kịp cột
dây ṿng dưới cổ để giữ,ø nó đă bước 2 chân sau ra khỏi càng xe. Đôi
khi nó vùng vằng lùi lùi, đẩy cho xe quay đít tuột xuống rănh bên lề
đường... Bực ḿnh quá đỗi, Tôi đành phải dùng bạo lực để trị bắt nó
phải phục tùng ḿnh, mặc dầu trong ḷng cũng thấy áy náy bất nhẫn vô
cùng. Một tay cằm chặt thừng xỏ mũi nó kéo lên, một tay cầm roi tre
quất qua quất lại thật mạnh vào 2 bên má của nó túi bụi. Nó đau nhắm
nghiền 2 mắt lại, cúi đầu xuống lùi lùi chịu trận không dám kháng cự.
Nhờ mấy trận đ̣n phủ mặt như vậy, nó mới biết sợ. Mỗi lần thấy Tôi
cằm dây xỏ mũi điều khiển, nó ngoan ngoăn lùi vào giữa 2 càng xe,
đứng im chờ cột dây an toàn ṿng dưới cổ đàng hoàng. Và chỉ khi nào,
thấy Tôi đă ngồi trên xe phất cây roi hô : “-Đi!”, nó mới bắt đầu
chậm răi cất bước kéo xe tiến tới.
Để cho nó phải hoàn toàn thuần thục, bớt sinh chứng ương ngạnh dọc
đường, chuyến đi bao giờ Tôi cũng ra roi bắt nó phải kéo xe không
chạy như ngựa, suốt đoạn đường dài 3 cây số, thoai thoải xuống đồi
rồi lại lên đồi, từ Đội chúng tôi vào gần đến chuồng ḅ K2 mới cho
đi thong thả trở lại. Mặc dù phải làm giữ để rằn mặt nó như vậy,
nhưng Tôi rất thương nó. Ngày nào phải đi kéo xe với Tôi, nó cũng
được một bao cỏ thật non, cắt sẵn từ chiều hôm trước, để điểm tâm
trong khi chờ kéo xe phân về Đội, hoặc chở rau vào Trại. Sau mỗi lần
chuyển vận xong, nó lại được nghỉ cả buổi chiều, lang thang bên bờ
sông trong khu vực lao động của Đội, để kiếm cỏ ăn no nê trước khi
dẫn trả về khu giam nó. Nhờ thế chỉ 2 tuần lễ sau, nó và Tôi đă trở
thành đôi bạn thân thiết. Mỗi lần thấy Tôi đến cởi dây cột bên bụi
tre dắt nó đi làm, nó luôn luôn mừng rỡ cúi đầu cà cà vào người Tôi
như chào hỏi, chớ không ương bướng như hồi đầu mới gặp nhau. Ngược
lại, để bầy tỏ t́nh thương của Tôi đối với nó, thỉnh thoảng Tôi nhét
vào miệng nó vài cục đường thẻ, một tay xoa xoa vỗ vỗ trên g̣ trán
giữa 2 cái xừng của nó. Nó cúi đầu lim rim đôi mắt, ngọ nguậy 2 tai
ra chiều thích thú lắm.
Những luống rau nào được “thâu hoạch” nộp Nhà Bếp xong, các anh phụ
trách tưới khu rau đó, phải cuốc đảo đất làm lại các luống của ḿnh.
Mùa nắng phải làm luống ch́m ngang mặt đất, đường đi chung quanh
luống cao hơn độ 10 phân, để giữ cho lúc nào trong luống rau cũng ẩm
nước, rau không bị chết khô hoặc èo ọt không tăng trưởng mạnh. Mùa
mưa, ngược lại phải làm luống nổi cao hơn mặt đất chừng 20 phân, cho
rau không bị úng nước thối gốc.
Tổ Reo Hạt Giống, gồm anh Sáu Đội phó và Tôi, tiếp tay các anh ấy
sửa luống, xẻ rănh, vào phân, reo hạt đợt mới. Sau khi chúng tôi
hoàn tất nhiệm vụ, các anh ấy lại tiếp tục công việc tưới hàng ngày,
cho đến khi rau “đạt tiêu chuẩn” để “thâu hoạch”.
Sau khi Hồ nước Đập Thủy Điện được khơi rộng xong. Tourbine cỡ nhỏ
được đặt trong căn nhà tháp bên đầu Đập khởi sự quay, cung cấp điện
cho trại. Khu “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, các dây bầu
bắt đầu ḅ phủ lá xanh to dầy đặc mặt giàn, các luống rau tăng
trưởng xanh mướt, đu đủ, chuối, ớt, bắt đầu đâm bông kết trái, vườn
hoa trước sân khu Nhà Thăm Nuôi nở rộ mầu sắc rực rỡ, là lúc các
đoàn từ Trung ương, Địa phương khác nối tiếp nhau đến “tham quan”
tới tấp.
Trời vào Hè bắt đầu nắng gắt. Một hôm vào khoảng 3 giờ chiều, Tôi
đang xới đất vun gốc mấy luống rau mới tỉa, tự nhiên thấy choáng
váng mặt mày, mắt trái buốt nhức thốn lên tận óc, đau quặn thắt
ngang lưng. Tôi phải bỏ việc đi lần qua những miếng ván dài, bắc
chênh vênh nối giữa các mô đá suốt bề ngang ḍng sông, về Nhà Lô Đội
nằm lăn ra chiếc giường riêng của anh Nghĩa chịu đựng. Anh Sáu Đội
phó thấy vậy, cũng bỏ việc chạy theo về, thoa dầu Cù Là cạo gió cho
Tôi. Một lúc sau bớt đau, ngồi dậy lấy nước uống, Tôi thấy mắt trái
tức tức và không nh́n thấy ǵ. Tôi lấy tay bịt mắt bên phải, chỉ
nh́n bằng mắt trái không thôi để kiểm chứng. Quả rằng mắt trái của
Tôi đă mù, chỉ thấy một màn ánh sáng mờ đục chớ không thấy h́nh cảnh
bên ngoài nữa. Tôi hoảng hốt, Quản giáo Đội không có mặt tại Nhà Lô,
đành phải báo cho anh Đội trưởng biết, rồi tức tốc rời “hiện trường
lao động” vào Bệnh Xá Trại giam xin khám bệnh “đột xuất”.
Cán bộ Y tế không có mặt tại Bệnh Xá. Anh bạn Tù trẻ, Bác sĩ Tôn
thất Sang, vốn thuộc Đội anh em Phục Quốc trẻ gốc Đà Nẵng, đ́nh công
không đi lao động nhân vụ Tôi bị “Ban” Nhu phạt cùm một chân trong
Nhà Kỷ Luật 5 ngày 5 đêm (Tôi đă kể trong một đoạn trước), được chỉ
định vào Bệnh Xá làm phụ tá cho Cán bộ Y tế Trại, khám định bệnh cho
Tôi. Anh ấy cho biết là mắt trái của Tôi bị “đục thủy tinh thể”
(cataract), nên không nh́n thấy h́nh cảnh bên ngoài. “Thủy tinh thể”
mắt bên phải, cũng bắt đầu chớm đục chút đỉnh nên vẫn c̣n nh́n thấy.
Nhưng một thời gian sau, không biết trước là bao lâu, khi “thủy tinh
thể” đục hoàn toàn như mắt trái, th́ cũng sẽ không nh́n thấy ǵ nữa.
Tôi lo lắng hỏi : “-Như vậy là mắt trái của Tôi hư luôn rồi sao? Có
cách nào chữa cho mắt phải không bị đục “thủy tinh thể”, để c̣n một
mắt mà nh́n đời chớ, cả 2 mắt mù luôn thành người tàn phế th́ c̣n ǵ
là tương lai?”
Để cho Tôi yên ḷng, anh Bác sĩ trẻ cười, nhẩn nha giải thích :
“-“Thủy tinh thể” ở con ngươi mắt được ví như miếng thấu kính (lens)
của máy chụp h́nh. Nó phải trong suốt th́ ánh sáng h́nh cảnh bên
ngoài mới thấu qua, in lên phim trong pḥng tối của máy ảnh được. Có
một cách giải thích cụ thể khác dễ hiểu hơn, tỉ như ta đứng sau một
cửa sổ ráp kính trong vắt, có thể nh́n thấy h́nh cảnh bên ngoài sân
rơ ràng. Nhưng nếu kính trên cửa sổ là loại đục, ta chỉ thấy ánh
sáng mờ mờ chớ không thấy h́nh cảnh bên ngoài sân. Cũng vậy, “thủy
tinh thể” trong con ngươi mắt bị chất vôi làm đục mờ đi, bộ năo
không c̣n ghi nhận được h́nh cảnh nữa, chỉ thấy ánh sáng mờ mờ xuyên
qua cái màng đục thôi. Muốn nh́n được trở lại, người ta phải làm
phẫu thuật. Mổ mắt bỏ miếng “thủy tinh thể” bị đục đi, thay thế bằng
miếng “thủy tinh thể nhân tạo” trong vắt không khó khăn ǵ. Tại
Thành phố Saigon, có một Bệnh viện rất lớn chuyên khoa về mắt, hàng
ngày người ta giải phẫu thay “thủy tinh thể” cho rất đông bệnh nhân,
có thể coi như trăm phần trăm ca mổ đều thành công mỹ măn. C̣n thuốc
chữa cho “thủy tinh thể” không bị chất vôi trong cơ thể làm đục,
hiện nay chưa có.”
Nhờ sự giải thích này, Tôi không c̣n cảm thấy chán nản buồn lo nữa.
Chỉ cần có cơ hội xin “Ban” Nhu Trại trưởng cho đi Bệnh viện mổ mắt
thay “thủy tinh thể”, là mọi chuyện lại b́nh thường. Nhưng, chuyện
này chẳng dễ dàng ǵ. Tấm gương anh Đại tá Hồ hồng Nam, bị đau gan,
đại tiện ra máu cả bao tháng trời, cứ phải nằm điều trị tại Bệnh xá
Trại, cho đến khi bệnh nặng quá, gia đ́nh khéo chạy chọt lắm mới
được tha về, vài tháng sau th́ chết.
Sáng hôm sau Tôi ghi sổ xin khám bệnh, để được Cán bộ Y tế Trại đích
thân xét nghiệm ghi vào hồ sơ tại Bệnh xá, tiện dụng sau này. Mấy
bữa sau, có phái đoàn thuộc Cục Trại giam Trung ương do một Tướng
cầm đầu (nghe nói là quan thầy của Ban Nhu) tới “tham quan” Trại
Z30D, ghé Nhà Lô Đội 23 chúng tôi, ngồi uống trà hút thuốc vào giờ
giải lao giữa buổi lao động sáng. Lợi dụng trong lúc vui câu chuyện,
Tôi tŕnh bầy về con mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể” không
trông thấy ǵ, cần phải đi Bệnh viện mổ, xin “Ban” Nhu “chiếu cố” để
cứu cho khỏi bị mù. Thấy “Ban” Nhu ngồi yên lặng nh́n Tôi vẻ ngạc
nhiên, Tôi tŕnh bầy lại mọi việc đă xẩy ra, và không quên báo cáo
là Cán bộ Y tế của Trại đă đích thân khám xét xác nhận như vậy. Vài
phút sau, “Ban” Nhu mới lên tiếng : “-Được rồi, để tháng tới có
người đang nằm điều trị tại Bệnh viện Phan Thiết về, Tôi sẽ cho Bác
đi.”
Vào giờ nghỉ lao động buổi trưa, anh em quây quần trong Nhà Lô ngồi
ăn cơm. Anh Điệt mới nói cho biết, lúc Tôi nói chuyện với “Ban” Nhu,
anh ấy đang ngồi phía bên trái của Tôi. Thấy “Ban” Nhu lưỡng lự
không quyết định, anh ấy đă nắm tay đấm dọa thẳng vào thái dương
trái của Tôi. Không thấy Tôi chớp mắt hoặc giật ḿnh phản ứng tự vệ,
chứng tỏ mắt trái của Tôi không trông thấy ǵ thật, lúc đó “Ban” Nhu
mới tin và trả lời bằng ḷng cho đi Bệnh viện trong tháng tới.
Một tháng, rồi 2 tháng qua đi, không thấy “Ban” Nhu nhớ đến việc cho
Tôi đi Bệnh viện. Tôi cũng chẳng t́m cơ hội để nhắc lại, v́ mới có
tin anh bạn Tù (cấp bậc Trung tá) nằm điều trị tại Bệnh viện Phan
Thiết, được gia đ́nh móc nối giúp đỡ sao đó, đă trốn đi biệt tích.
Ban Chỉ huy Trại đang phiền ḷng, điên đầu v́ vụ này xẩy ra ngay
trong thời gian “thi đua lập thành tích tranh giải Trại Cải tạo
gương mẫu cả nước”. Tôi đành tiếp tục nh́n đời bằng một con mắt,
nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của thời Đại Nạn đến đâu hay đó. Biết
làm sao hơn, khi vận bí của ḿnh chưa hết.
Gần cuối tháng 6, Linh mục Bùi đức Sinh, phụ trách trồng ớt phía
trước Nhà Thăm Nuôi, được gọi “làm việc” mấy ngày liền. Sau đó Ngài
được chuyển đi nơi khác. Sau này khi được tha về, gia đ́nh Tôi ở gần
nhà Thờ Ba Chuông, đường Lê văn Sĩ (Trương Minh Kư cũ), quận Phú
Nhuận, có dịp ghé thăm Linh mục Sinh. Mới biết là rời Trại Z30D,
Ngài được đưa về Trại Z30A tại Xuân Lộc, Long Khánh, ở chung với các
vị Linh mục Tuyên Úy Quân đội.
Hết Hè vào Thu, mùa mưa lũ nước sông dâng cao, chẩy xiết làm đất 2
bên bờ lở, mở ḷng sông rộng thêm cả 2, 3 mét. Một số luống rau và 2
vạt ớt trồng ven bờ bị xụt, nước cuốn trôi mất tích. Cứ sau mỗi trận
nước lũ, bờ sông lở xụt thêm, diện tích canh tác của chúng tôi tự
nhiên được giảm bớt đi một phần tư, nhờ vậy anh em đỡ vất vả phần
nào.
Sau Lễ Độc Lập 2 tháng 9, được tin Trại Z30D chiếm giải “Trại cải
tạo gương mẫu cả nước”, “Ban” Nhu hân hoan, cung cách cư xử đối với
Cán bộ cũng như đối với Tù có nhiều thay đổi, rộng răi bớt khắc
nghiệt hơn trước. Cũng dịp này, Trung Ương cử một phái đoàn hùng hậu
đến Trại tổ chức đợt học tập mới, với tinh thần “Dân chủ Cởi mở, nói
thẳng nói thật, để Lănh đạo ghi nhận mọi ưu khuyết điểm, nhằm chấn
chỉnh Đổi mới Chính sách quản lư Tù cho tốt hơn, hữu hiệu hơn”. Anh
em được nghỉ lao động cả tuần lễ để nghe thuyết giảng, và viết bài
tường tŕnh tổng kết mọi nhận xét riêng, về cách giáo dục cũng như
quản lư của các Trại, suốt “quá tŕnh cải tạo” của ḿnh một cách
“thành khẩn”. Đúng theo tinh thần “cởi mở, đổi mới” của Tổng Bí Thư
Nguyễn văn Linh, đă đi tiên phong qua loạt bài “Những việc cần làm
ngay” được phổ biến rộng răi để toàn Quân toàn Dân học tập. Ngoài ra
anh em Tù cũng được yêu cầu cho biết nguyện vọng cá nhân, tương lai
được tha về đoàn tụ với gia đ́nh, có muốn ở lại trong nước để cùng
Nhân dân xây dựng kiến thiết đất nước, hay muốn xin đi định cư tại
nước ngoài? Đặc biệt bài “thâu hoạch” kỳ này, không phải đem ra mổ
sẻ trước Đội như những lần học tập trước, và do chính nhân viên phái
đoàn Trung Ương thâu góp, không nộp qua hệ thống Quản Giáo của Trại
như thường lệ. Làm như vậy để cho Cải tạo viên yên tâm, không sợ Ban
Chỉ huy Trại trù dập, v́ những điều “nói thẳng nói thật” có liên
quan tới Trại đang quản lư ḿnh.
Anh em khác không biết viết sao, phần riêng Tôi đă thẳng thắn nhận
xét là :
1.-Các Trại Bộ đội đối xử với Cải tạo viên tương đối có “t́nh người”
hơn các Trại do Công An quản lư. Cán bộ Quản giáo bên Bộ đội tháo
vát, có nhiều kinh nghiệm chăn nuôi trồng tỉa cũng như xây dựng, chỉ
dẫn cho Cải tạo viên cặn kẽ. Không như Quản giáo Công An lầm lầm lỳ
lỳ, chỉ biết chỉ tay năm ngón và hạch xách nạt nộ, chớ chẳng biết ǵ
để mà hướng dẫn.
2.-Về quản lư Tài chánh, các Trại Bộ đội luôn luôn công khai x̣ng
phẳng. Nhà Nước quy định “tiêu chuẩn” cho Cải tạo viên bao nhiêu một
ngày, th́ lo tiếp xúc với địa phương mua các thực phẩm Trại chưa sản
xuất đủ hoặc không có, để Cải tạo viên có ăn hàng ngày. C̣n bên các
Trại Công An, ngày nào cũng thấy ghi trên bảng Chi Thu tại Nhà Bếp
tiền dư không dùng hết, trong khi thực phẩm cung cấp hàng bữa nghèo
nàn không có ǵ, ngoài vài muổng nước muối và đôi cọng rau do chính
Cải tạo viên sản xuất ra. Đôi khi rau cũng không có, phải dùng lá
đọt sắn muối chua rồi đem nấu chín. Dân chúng địa phương h́nh như
lúc nào cũng sợ, lo thủ thế không có cảm t́nh với Công An cho lắm,
nên chẳng mua được ǵ để cung cấp cho Cải tạo viên.
3.-Từ năm 1985 được chuyển về Trại Z30D, thấy ngoài việc trồng lúa,
khoai ḿ, bắp, khoai lang, c̣n có nhiều chương tŕnh làm “kinh tế”
khác như : gia công sản xuất quần áo, sản xuất đồ gỗ, trồng mía làm
đường, nuôi ḅ, nuôi heo, nuôi gà đẻ trứng, được thực hiện cùng một
lượt. Đồng thời Trại xây dựng được Đập Thủy Điện nhỏ, đủ cung ứng
cho nhu cầu soi sáng và kéo các loại máy công nghiệp không tốn tiền
xăng nhớt. Nguồn sức lao động của Cải tạo viên cả Nam lẫn Nữ, được
khai thác đến mức tối đa, để làm ra nhiều của cải và tiền cho Trại.
Nhờ thế, hàng ngày Cải tạo viên được ăn cơm không độn. “Chế độ thăm
nuôi”, gia đ́nh tiếp tế cho Cải tạo viên cũng được cởi mở dễ dàng
hơn các Trại khác. Mọi người vui vẻ cố gắng lao động sản xuất, hoàn
thành các “chỉ tiêu” Trại đề ra kịp thời đúng lúc, y như đang tham
gia lao động trong Hợp tác xă thực sự vậy.”
Về nguyện vọng trong tương lai, sau khi được tha về đoàn tụ với gia
đ́nh, Tôi trả lời nước đôi một cách vô thưởng vô phạt. “Nếu Nhà Nước
“chiếu cố” cho phép ra nước ngoài th́ Tôi sẽ đi. V́ biết ḿnh già
yếu bệnh hoạn, mắt bên trái đă mù không thấy đường, chẳng những
không làm được ǵ lợi ích cho Xă hội, mà lại c̣n ăn bám vào Xă hội
là điều Tôi không muốn. C̣n nếu Nhà Nước không cho đi, Tôi sẽ cùng
vợ con cố gắng đóng góp sức già yếu của ḿnh vào công việc chung của
đất nước, được đến đâu hay đến đó.”
Đợt học tập chấm dứt, có 1 Đoàn Y tế Trung Ương được cử tới Trại,
khám sức khoẻ tổng quát cho chúng tôi. Họ làm việc chậm răi kỹ càng,
đo chiều cao, cân mức nặng của cơ thể, đo huyết áp, nghe nhịp tim và
phổi, khám mắt, tai, mũi, họng và răng, quan sát khả năng di chuyển,
và sau cùng ngồi hỏi từng người để ghi nhận những loại bệnh mà ḿnh
nghĩ rằng ḿnh đang có bấy lâu nay. Ai cũng nhân cơ hội này khai đủ
thứ bệnh măn tính, hy vọng hồ sơ sức khoẻ ghi nhiều bệnh tật, sẽ là
một dự kiện giúp cho việc xét tha thuận lợi hơn những người có sức
khoẻ tốt ít bệnh tật. Tôi cũng khai một lô bệnh. Nào là đau bao tử,
sạn thận, huyết áp thấp, nhịp tim không đều, mắt trái bị cườm mù
không trông thấy ǵ. Nào là thấp khớp, đau cột xương sống ở khúc
ngang bả vai và thắt lưng, thỉnh thoảng buốt một bên đầu. Riêng phần
răng của Tôi, sau khi khám họ nói cho nghe và ghi vào hồ sơ chỉ c̣n
dùng được 50 phần trăm. Nhưng thực tế, chẳng ai biết việc xét tha Tù,
Việt Cộng dựa vào “tiêu chuẩn” nào? Tỉ dụ, t́nh trạng sức khoẻ của
Tôi, thua xa các anh Nguyễn quốc Quỳnh, Tô văn Vân, thế mà các anh
ấy lại được tha trước Tôi cả nửa năm Trời.
Qua những lời bật mí úp mở của “Ban” Nhu và Quản giáo Đội, ghi nhận
được trong câu chuyện với đoàn Cán bộ Trung Ương, mọi người “hồ hởi”
tin tưởng ngày tha hàng loạt sẽ được thực hiện ngày rất gần. Nhưng
niềm vui, hy vọng sắp thoát cảnh ngục tù vừa chớm nở chưa được bao
lâu, 2 tin giật gân do báo chí và đài phát thanh của Nhà Nước liên
tiếp tung ra cách nhau mấy tháng, làm anh em chưng hửng buồn vui lẫn
lộn một thời gian. Vui v́, trong số những người bỏ nước ra đi hồi
cuối tháng 4 năm 1975, cũng c̣n có người can đảm dám đứng ra vận
động chiến hữu tiếp tục cuộc tranh đấu chống Cộng sản Việt Nam, để
giải cứu quê hương dân tộc thoát ách cai trị độc tài. Buồn v́, các
sự kiện này bất ngờ xẩy ra không đúng lúc, có thể gây ảnh hưởng bất
lợi làm tŕ hoăn thời điểm măn hạn Đại nạn, cải tạo cực khổ nhục
nhằn của anh em không biết đến bao giờ.
Hai tin đó là :
“-1. Vơ đại Tôn, Đại tá chế độ cũ, từ Úc Đại Lợi về Việt Nam tổ chức
mưu toan xúi giục lật đổ Nhà Nước Xă hội Chủ nghĩa, đă bị bắt đưa ra
Toà án Nhân dân xử tội, và đang bị câu lưu thi hành bản án.
-2, Hoàng cơ Minh, Tướng Hải quân chế độ cũ Saigon cùng nhóm phản
động, từ Hoa Kỳ lén lút về nước hoạt động chống phá Chính quyền Cách
mạng, đă bị bắn chết tại vùng biên giới Lào Việt. Một số đồng bọn bị
bắt, đưa ra Toà án Nhân dân xử câu lưu cải tạo.”
Mỗi lần có tin tức mới, “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D thường tới Nhà Lô
Đội, đưa tờ báo Nhân dân cho anh em coi h́nh, và hỏi có ai quen biết
không? Anh em cầm tờ báo nh́n ảnh thật kỹ, rồi ai nấy lắc đầu trả
lời chưa hề thấy bao giờ, và nói : “-Cái tên nghe cũng có vẻ lạ,
trong Quân đội lúc sau này nhiều người được thăng cấp mặt trận nhanh
quá, nên không biết hết được.” Mặc dù cũng có người biết, nhưng
không ai dại ǵ mà nhận có, lúc đang c̣n nằm trong ṿng kiềm toả của
Trại cải tạo.
Nhưng theo suy nghĩ của riêng Tôi, các sự kiện này đem lại may nhiều
hơn rủi cho anh em. Có thể đây là những “hư chiêu” mà Hoa Kỳ muốn
tung ra để hù dọa Việt Cộng. Để buộc họ phải dứt khoát chấp nhận kế
hoạch thả hết Tù Chính trị miền Nam, theo đề nghị của Hoa Kỳ, mà
hưởng những ǵ Hoa Kỳ hứa đền bù trao đổi. C̣n chậm trễ, nhiều biến
cố bất ngờ khác có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, hậu quả sẽ là “xôi
hỏng bỏng không”.
Theo thời gian, mọi chuyện cũng qua đi và mờ dần trong quên lăng.
Ngày tháng tiếp tục lầm lũi nối đuôi nhau, chẳng mấy chốc năm lại
hết, Tết lại đến. Tết con Mèo (Đinh Măo-1987) nhờ chính sách “cởi mở”,
anh em Tù được chuẩn bị đón Xuân thoải mái hơn Tết năm con Hổ. Ngay
từ giữa tháng Chạp, nhân một dịp ghé Nhà Lô Đội chúng tôi, để chứng
tỏ sự quan tâm khích lệ tinh thần lao động cần cù của anh em, “Ban”
Nhu mở lời mời mọc thân thiện : “-Tết này Bác nào muốn có dịp đón
Xuân bên Bà Xă và Con Cháu, hăy nhắn Bà Xă đưa lên, Tôi sẽ cho ở lại
suốt 3 ngày Tết. Vợ chồng con cái tha hồ thong thả nấu nướng ăn uống,
dắt nhau rong chơi ngắm cảnh Vườn Tao Đàn, Hồ Thủy Điện, chụp h́nh
kỷ niệm.”
Ngày 30 Tết, nhiều gia đ́nh đến “thăm nuôi”. Nhưng phần lớn ưa kiêng
cữ, không ai muốn đón Xuân trong đất có liên hệ đến Nhà Tù. Nên chỉ
có vài gia đ́nh xin ở lại, được “Ban” Nhu chấp thuận cho hết, đúng
như đă nói với chúng tôi từ nửa tháng trước. Đội chúng tôi, có Anh
Quỳnh Đội trưởng nhắn Bà Xă lên thăm ở lại ăn Tết bên anh ấy.
Vào đêm Mồng Một Tết, nhờ sự “chiếu cố đặc biệt” của“Ban” Nhu Trại
Trưởng, Đoàn Văn Công số 1 của Thành phố Hồ Chí Minh, do Ca Nhạc sĩ
Nghệ nhân Cộng sản Nguyễn trọng Cầu hướng dẫn, đă được thuê đến bao
thầu một chương tŕnh văn nghệ thật đặc sắc. Trong số Nữ Ca sĩ có
Thanh Lan, nổi danh trước 30-4-1975 tại miền Nam, được toàn thể khán
giả cảû Cán bộ lẫn Tù hoan hô nhiệt liệt. Cô ấy được vỗ tay yêu cầu
hát liên tiếp một lúc 3, 4 bài, khán giả vẫn chưa tha cho rời sân
khấu, hô Bis! Bis! yêu cầu hát nữa. H́nh như lẫn lộn trong sự ngưỡng
mộ, người ta muốn khích cho con thiêu thân nhuốm mầu ánh sáng đỏ,
hát đến hết hơi mệt đứt ruột, chết gục trên sân khấu mới thôi.
Các gia đ́nh được phép ở lại ăn Tết bên Tù trong khu Nhà Thăm Nuôi,
cũng được “Ban” Nhu cho Cán bộ dẫn vào xem chương tŕnh văn nghệ đầu
năm rất hấp dẫn này. Các bạn ấy và thân nhân được “đặc biệt chiếu cố”,
xếp chỗ ngồi ngay hàng ghế đầu sát sân khấu, khu dành cho Cán bộ.
Tết đă qua đi cả tháng rồi, dư âm “cởi mở” của Ban Giám Thị đối với
Tù, vẫn tiếp tục kéo dài chưa dứt. Các Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ
cũng dễ dăi, bớt khắt khe nên thiếu cảnh giác, đă xẩy ra một vụ cướp
súng trốn Trại giam giữa ban ngày, một cách thật ly kỳ như chuyện
đang xẩy ra trong phim trường Hồ Ly Vọng (Hollywood) bên Hoa Kỳ vậy.
Chuyện xẩy ra trong giờ lao động chiều, tại cây cầu gỗ bắc ngang
sông, chỗ có khu Nhà Tiếp Đón thân nhân Tù đến “đăng kư xin thăm
nuôi”, gần Quốc lộ Saigon-Phan Thiết. Ba anh cướp súng bỏ chạy ra
khỏi Trại, thuộc Đội anh em Phục Quốc trẻ gốc Đà Nẵng, đă đ́nh công
không chịu đi lao động, hồi “Ban” Nhu phạt cùm Tôi trong nhà Kỷ Luật
(đă được kể trong một đoạn trước). Các bạn cùng Đội và mấy Tù phục
vụ tại Khu Tiếp Đón thân nhân, mục kích sự việc lúc xẩy ra kể lại
như sau :
“Vào giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động chiều, Cán bộ Quản giáo
không mang súng, Cảnh vệ mang súng nhưng để xuống đất ngay bên cạnh
chỗ ngồi, hút thuốc, uống nước, ăn quà bánh do Tù mời như thường lệ.
Bỗng dưng có một bạn Tù bất thần nhào tới cướp súng lên đạn, chĩa về
phía Cán bộ hô lớn : -Tất cả nằm xuống, không được nhúc nhích. Thế
rồi mấy anh dự định trốn Trại, theo nhau rút qua cầu bỏ chạy vào
phía rừng bên kia sông. Khi các anh ấy chạy xa ngoài tầm súng AK,
các Cán bộ mới dám vùng lên chạy theo đuổi cầm chừng, miệng la bắt
trốn trại. Lúc đó mới nghe bên kia sông có tiếng súng bắn 3 phát báo
động. Khoảng nửa giờ sau, rất đông Cán bộ Trại được huy động, rầng
rầng bủa đi t́m bắt, cho đến tối mịt không kết quả. Không biết các
anh ấy c̣n trốn lẩn quất đâu đó trong rừng, trong nhà dân chúng
quanh vùng, hay đă cao bay xa chạy thoát khỏi vùng.”
Một cuộc điều tra sâu rộng, đă làm cả Trại giam bị giao động trong
nhiều ngày liền, nhất là Đội chúng tôi. Anh Quỳnh Đội trưởng của
chúng tôi bị gọi “làm việc” trước nhất, v́ có tin báo cáo mấy người
trốn Trại đă nhiều lần tiếp xúc với anh ấy. Nhưng sau khi điều tra,
anh Quỳnh và Đội chúng tôi không bị liên hệ ǵ. V́ mấy người kia c̣n
trẻ, “tiêu chuẩn thực phẩm” Trại quy định hàng ngày thấp, họ bị
thiếu đói nên mục đích gặp chỉ để xin thực phẩm. Y như trường hợp
nhiều Tù khác, cả Nam lẫn Nữ, cũng thường tiếp xúc với chúng tôi để
xin thực phẩm vậy thôi.
Hồi Linh mục Bùi đức Sinh c̣n ở Đội chúng tôi, Ngài cũng đă bị một
lần sợ lên ruột. Một buổi trưa, lúc Ngài đang tắm một ḿnh dưới sông,
có một Tù Nữ bên Đội Nuôi Heo lặn lội từ bờ sông bên kia sang, đến
gần kể lể nỗi niềm riêng với Cha tinh thần để xin thực phẩm. Linh
mục Sinh hoảng hốt ôm quần áo bỏ chạy lên Nhà Lô, kể chuyện cho anh
Quỳnh Đội trưởng nghe, và nhờ anh ấy với tư cách là ông Trùm Họ Đạo
tiếp xúc giải quyết giùm. Ngài sợ có người trông thấy, xuyên tạc làm
tổn hại đến thanh danh Linh mục th́ thật khốn khổ.
Hơn tháng sau, một trong mấy anh trốn Trại bị bắt đem trở lại. Tin
Cán bộ Quản giáo Đội chúng tôi cho biết, người ta bắt được anh ấy về
thăm thân quyến tại vùng quê Đà Nẵng. Anh ấy bị cùm 1 chân trong Nhà
Kỷ Luật, nơi mà Tôi đă từng bị cùm 5 ngày 5 đêm. Nhưng không biết
làm thế nào, 2 ngày sau anh ấy gỡ được cùm thoát ra khỏi Nhà Kỷ Luật,
vượt 2 lớp hàng rào kẽm gai và tre tươi, cao 3 mét dày 2 mét, phía
hông sau Khu giam Tù, chạy trốn lần nữa vào lúc nửa đêm. Thật là một
cuộc vượt ngục tài t́nh, làm mọi người kể cả Cán bộ cũng phải ngả
nón chào sát đất để tỏ ḷng thán phục.
Để mừng Lễ Độc Lập 2 tháng 9 năm 1987 của Nước Cộng hoà Xă hội Chủ
nghĩa Việt Nam, một đợt khá đông anh em Tù được tha. Đội chúng tôi,
có các anh Nguyễn quốc Quỳnh Đội trưởng, Tô văn Vân coi Nhà Lô Đội,
và Nguyễn văn Phúc phụ trách chăm sóc cắt tỉa cây kiểng vườn bông
quanh khu Nhà Thăm Nuôi, cũng có tên trong danh sách được tha. Lễ
đọc danh sách tha, được tổ chức vào một buổi sáng đẹp trời, tại Hội
trường trước giờ xuất trại lao động. Sau buổi lễ, những người được
tha ở lại chuẩn bị hành trang về đoàn tụ với vợ con, c̣n những người
vận may chưa đến ra sân tập họp đi lao động như thường lệ. Người về
kẻ ở, bu lại chia tay nhau, xúc động nước mắt lưng tṛng, dặn ḍ
nhắn gửi vội vă ồn ào hỗn độn, y như buổi băi trường đi nghỉ hè thời
c̣n thơ ấu vậy.
Sau đợt tha, nhân số Đội chúng tôi bị giảm nhưng không được bổ xung,
nên buộc phải bỏ bớt một số luống rau không trồng tiếp. Các khâu phụ
trách những phần vụ chuyên biệt, vẫn tiếp tục công việc hàng ngày
như b́nh thường, không có ǵ thay đổi. Anh Đại tá Trịnh đ́nh Đăng,
bạn nấu nướng ăn chung với Tôi hồi mới từ Trại Thanh Phong về bên
Trại Z30C, có sức khoẻ, tháo vát, thông thạo về nhiều ngành nghề,
được chỉ định làm Đội trưởng thay anh Quỳnh.
Vài tháng sau ngày được tha, anh Nguyễn quốc Quỳnh trở lại Trại thăm
chào cám ơn Ban Giám Thị. Nhân dịp này “Ban” Nhu cũng cho phép ghé
thăm, và đem chút quà t́nh nghĩa cho anh em chúng tôi tại Nhà Lô của
Đội. Anh em gặp nhau vui mừng, trao đổi những câu chào hỏi xă giao,
không có dịp thuận tiện tâm sự về những tin tức cần biết ngoài xă
hội.
Khoảng giữa tháng 1 năm 1988, đúng lúc Tôi đang bệnh, Vợ và Cô gái
út đến xin “thăm nuôi”. “Ban” Nhu cho phép ở lại 5 ngày để chăm sóc.
Ngay đêm đầu, Tôi đau bụng quằn quại, mắt trái đau nhức khi thấy ánh
sáng, hâm hấp sốt, đầu buốt như búa bổ, cả đêm đi ra đi vào tiểu
tiện rắt không ngủ được. Hai Mẹ Con phải cực nhọc vất vả lo thuốc
thang, đun nước hoà sữa cho Tôi uống từng chút từng chút, cả đêm
chẳng được ngơi nghỉ. Thật tội nghiệp! Ngày hôm sau, vào lúc măn giờ
lao động chiều, Tôi ngồi dựa lưng bên giường ngủ, vừa húp xong chén
cháo đường, thấy lợm giọng buồn nôn. Chỉ kịp với tay cầm chiếc thau
nhôm hứng trước mặt, những ǵ vừa nuốt vào tuôn ra hết, cùng với một
bụm máu đỏ tươi phủ trên đám cháo trắng. Cô gái út của Tôi vội vă
chạy băng qua cầu gỗ, nơi khúc sông hẹp, ngay phía sau Nhà Thăm Nuôi
sang Nhà Lô Đội, xin anh Đăng Đội trưởng cho anh Sáu Đội phó đến
giúp đỡ. Đến nơi thấy sắc mặt và t́nh trạng của Tôi bất thường, anh
Sáu chạy gấp đi gặp Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi báo cáo, mời ông ấy
đếân xem và xin đưa Tôi vào Bệnh xá Trại cấp cứu. Cán bộ phụ trách
Thăm Nuôi và Quản giáo Đội, cùng theo anh Sáu đến pḥng dành cho gia
đ́nh Tôi, quan sát và đồng ư cho anh Sáu d́u Tôi vào Bệnh Xá Trại
cấp cứu.
Vào tới Bệnh xá, Tôi được yêu cầu nằm trên bàn khám, anh bạn Tù Bác
sĩ Sang hỏi các triệu chứng để định bệnh. Miệng cổ khô khát, Tôi xin
nước uống, nhưng vừa nuốt vào lại mửa ra ngay. Bác sĩ Sang bóp da mu
bàn tay của Tôi kéo lên, lúc buông ra không thấy da tự động căng
thẳng trở lại. Anh ấy nói : “-Cơ thể thiếu nước trầm trọng, cần phải
tiếp nước biển (serum). Bệnh xá chỉ c̣n có một chai, phải chờ tŕnh
Cán bộ Y tế chấp thuận mới được dùng.” Anh Sáu Đội phó vẫn ở bên
cạnh Tôi, khẩn khoản xin Bác sĩ lo “khẩn trương” giúp. Tôi bắt đầu
cảm thấy người mệt nhoài không c̣n muốn cựa quậy, 2 tay tê tê buồn
buồn phải co ruỗi các ngón tay liên tục, mi mắt nặng trĩu mở ra
không muốn nổi. Anh Sáu đứng bên cạnh, phụ bóp 2 cánh tay cho Tôi đỡ
mỏi. Sau này Tôi mới biết triệu chứng đó, thường được các Cụ già cho
là bệnh nhân tay bắt chuồn chuồn, tức là sắp tới giờ chết.
Một lúc sau, cả Cán bộ Y tế và Quản giáo Đội của Tôi cùng vào Bệnh
xá. Sau khi nghe Bác sĩ Sang tŕnh bầy, Cán bộ Y tế chẩn bệnh kiểm
tra rồi đi ra ngoài, một lúc mới quyết định chấp thuận cho xử dụng
chai nước biển. Chắc là điện thoại xin lệnh “Ban” Nhu. Tôi được d́u
vào nằm trên một giường trống, bên các bệnh nhân đang nằm điều trị
trong Bệnh xá. Mạch máu giữa nhượng cánh tay của Tôi lặn mất không
t́m ra, Bác sĩ Sang phải đâm kim chích vào tĩnh mạch nơi mu bàn tay,
để truyền nước biển vào máu cho Tôi.
Hai mắt mỏi xụp xuống, Tôi ngủ thiếp đi không biết được bao lâu,
thấy có vật ǵ lành lạnh đè lên trán làm giật ḿnh tỉnh giấc. Mở mắt
thấy Cán bộ Y tế và Quản giáo Đội đứng bên giường, và hỏi : “-Anh
thấy thế nào?” Tôi chưa kịp trả lời, Cán bộ Y tế nói tiếp : “-“Ban”
Nhu chấp thuận cho đưa anh đi Bệnh viện. Anh muốn đi Phan Thiết chữa
bao tử hay đi Saigon chữa mắt?” Tôi trả lời : “-Nhờ Cán bộ tŕnh
“Ban” cho Tôi đi Saigon để chữa mắt, v́ mắt trái của Tôi bị đục
“thủy tinh thể” hơn 1 năm rưỡi nay rồi. Chắc để lâu quá không chữa
trị, mới biến chứng hành đau đớn như vậy. Trong khi chữa mắt tại nhà
thương, Tôi cũng có thể đồng thời xin chữa trị bao tử một thể. Như
vậy chỉ một lần đi Bệnh viện, giải quyết được 2 bệnh cũng rất thuận
tiện. Hơn nữa gia đ́nh Tôi ở Saigon, có thể ghé chăm sóc Tôi thường
xuyên dễ dàng hơn.”
Các Cán bộ vừa đi ra, anh Sáu Đội phó vào pḥng thăm Tôi. Lúc đó Tôi
mới biết trời đă sáng, anh em đang chuẩn bị đi làm. Tôi xin mảnh
giấy viết mấy chữ, nhờ anh Sáu đem ra báo và dặn ḍ Vợ Con mấy điều
:
“-1. Cán bộ Y tế vừa cho biết, “Ban” Nhu Trại trưởng chấp thuận cho
di tản Tôi đi Bệnh viện tại Saigon, ngay sáng nay để “cấp cứu” chữa
mắt.
-2. Đưa hết quà “thăm nuôi” cho anh Sáu giữ dùng, v́ anh Sáu và Tôi
ăn cơm chung, nên tháng tới Chị Sáu mới lên tiếp tế.
-3. Mẹ Con chuẩn bị hành trang sẵn sàng, về Saigon ngay trong buổi
sáng nay.”
Anh Sáu cằm thơ của Tôi đi ra, th́ mấy anh bạn thân trong Đội ghé
thăm. Tôi cho anh em biết, “Ban” Nhu cho đi Saigon chữa bệnh vào
buổi sáng hôm nay. Ai cũng tỏ vẻ mừng rỡ, chúc cho Tôi thượng lộ
b́nh an gặp nhiều may mắn. Một lát sau, khi mọi người xuất Trại lao
động hết, Bác sĩ Sang bảo Tôi về pḥng giam thu vén tư trang, đem ra
chỗ pḥng canh tại cổng lớn, đứng chờ xe Cán bộ đến chở đi Saigon.
Tôi về pḥng giam của Đội, chẳng đâu xa, ngay đầu Dẫy Nhà đầu tiên
của Khu giam Tù Nam, bên kia khoảng sân rộng khoảng 2 chục mét, đối
diện với Bệnh xá. Tôi thu vén chăn gối mùng, bọc thuốc trị bệnh cần
dùng hàng ngày, vài gói ḿ ăn liền, nhét tất cả vào trong túi đeo
lưng vải kaki xanh (do chính Tôi tự may lấy đem theo từ hồi tŕnh
diện Học tập Cải tạo đến nay). Xong suôi mệt toát mồ hôi, Tôi vừa
tính đeo túi lên vai đi ra cửa, anh Vơ hữu Bá (Đại tá) Trực Pḥng
chạy đến bắt tay chào chúc lên đường b́nh an, và giành cầm chiếc túi
đồ dùng và dắt Tôi đi ra bên cổng, cùng đứng chờ cho đến khi xe Cán
bộ đến chở Tôi đi, anh ấy mới quay vào. Anh Bá cũng là một người bạn
tốt, đă ở chung một Đội với Tôi suốt từ hồi c̣n ở Trại Cốc - Liên
trại 1 - Yên Bái - Hoàng Liên Sơn, qua Trại Tân Lập - Vĩnh Phú, vào
K2 - Trại Thanh Phong - Thanh Hoá, về Trại Z30C, rồi sang đến Trại
Z30D này.
Tôi ngồi chồm hổm bên trong cổng khu giam chờ chừng 30 phút, chiếc
xe hơi du lịch loại sang của “Ban” Nhu thường dùng chạy đến. Cán bộ
Y tế và 1 Cảnh vệ xuống xe vào t́m Tôi, hối đem tư trang ra cất vào
thùng xe phía sau, rồi lên xe đi “khẩn trương”. Trong khi anh Bá
giúp Tôi để túi đồ lên xe, Cán bộ hỏi : “-Vợ Con anh đâu?” Tôi trả
lời : “-Đang ở trong Nhà Thăm Nuôi bên bờ sông.” Ông ấy hối :
“-“Khẩn trương” lên xe ra đón Vợ Con anh cùng đi Saigon một lượt.”
Tôi quay lại bắt tay cám ơn anh Bá và dặn thêm : “-Đồ đạc của Tôi
c̣n lại trong pḥng, nhờ anh nhắn anh Sáu thu gọn bỏ hết vào trong
chiếc rương tôn giùm”, rồi lên xe ngồi vào hàng ghế phía sau. Cán bộ
Y tế và Cảnh vệ theo canh gác Tôi trong thời gian nằm Nhà Thương,
ngồi ở hàng ghế trước bên cạnh Cán bộ tài xế.
Xe chạy tới Vườn Tao Ngộ khu Nhà Thăm Nuôi bên bờ sông, ngừng tại
ngă ba phía trước cầu gỗ. Cán bộ Y tế bảo Tôi vào gọi Vợ Con ra lên
xe. Xuống xe, Tôi lảo đảo cố gắng đi từng bước một qua cầu, tới
pḥng đă thấy hai Mẹ Con và anh Sáu Đội phó đang ngồi đó nói chuyện
chờ Tôi. Vợ Tôi cho biết anh Sáu Đội phó không chịu nhận các món quà
“thăm nuôi”. Tôi biết tính anh ấy khẳng khái cố ép cũng không được,
bèn nói : “-Chúng tôi đi bằng xe nhỏ của “Ban” Nhu đang đậu chờ
ngoài kia, không có chỗ chứa mấy bọc đồ ăn, và gà c̣n sống, cồng
kềnh này. Chừng mươi ngày mổ mắt xong Tôi trở lại Trại, Chị Sáu chưa
tới kỳ lên tiếp tế, lấy ǵ cho tụi ḿnh ăn?” Rồi Tôi hối hả thúc Vợ
Con ra xe lẹ lẹ kẻo Cán bộ đợi lâu phiền ḷng, để mặc anh Sáu đứng
đó với đống quà “thăm nuôi” của Tôi.
Hai Vợ Chồng tôi và Cô con gái ngồi hàng ghế phía sau, 3 Cán bộ ngồi
hàng ghế trước. Xe lăn bánh thong thả qua khu Vườn Tao Ngộ, đến chỗ
Xưởng Mộc vàø Câu Lạc Bộ bên đầu Đập Thủy Điện rẽ phải, chạy trên
con đường dọc bờ rào bên hông Khu Giam Tù, băng qua cổng lớn của
Trại Z30D để ra ngă ba Quốc lộ, rẽ phải đi hướng Saigon. Đặc biệt,
chuyến đi này cả 3 Cán bộ đều mặc thường phục, tay của Tôi không bị
c̣ng xích trong khi di chuyển ra ngoài Trại giam, như thường áp dụng
trước đây, nên mọi người đều cảm thấy vui vẻ thoải mái. Tôi mệt mỏi
lấy chiếc gối đệm sau ót, ngửa đầu tựa vào lưng ghế, chùm chiếc khăn
lông che mặt cho khỏi bị ánh nắng làm chói nhức mắt, thiêm thiếp ngủ
theo tiếng ru vo vo đều đều của máy xe hơi.
BẢN CHẤT KHÔNG THAY ĐỔI.
Lũ lụt non sông nước đục ngầu,
Đỏ Xanh hoà lộn biến thành Nâu.
Vàng ṛng nung lửa càng tinh khiết,
Đen Trắng muôn đời đối nghịch nhau.
0+0+0+0+0.
Thời gian chồng chất mái đầu,
Nắng mưa vương tóc ngả mầu muối tiêu.
Giang sơn tan tác tiêu điều,
Toàn dân cùng cực trăm chiều đắng cay.
Thề xưa vẫn nhớ đêm ngày,
Kiên tâm nhịn nhục bấy nay đợi chờ.
Nạn tan Trời giúp thời cơ,
Mài gươm tiếp tục ước mơ thuở nào.
Chung vai sát cánh Đồng bào,
Diệt bầy qủy đỏ, trương cao cờ vàng.
Cứu Dân Việt hết lầm than,
Nhân quyền Dân chủ hân hoan mọi nhà.
Rời K1-Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.
Ngày 17 tháng 1 năm 1988.
(sắp vào tháng giáp Tết Mậu Th́n)
HOME
(C̣n tiếp..) |