Chương 34
RẬP KHUÔN THEO QUAN THẦY LIÊN XÔ, VIỆT CỘNG
CŨNG ĐỔI MỚI, CỞI TRÓI, MỞ CỬA.
trong
Hồi
Ức Tù Cải Tạo Việt Nam
Nguyễn Huy Hùng
Song song với việc khởi công nới rộng hồ tích nước, làm Đập Thủy
Điện, Phân trại K1, Z30D dựng thêm một căn “nhà bát giác” làm Thư
viện, nơi góc sân tập kết ngay trước lối vào Bệnh xá, gần trạm kiểm
soát cổng lớn Khu giam. Để chiều chiều, trong thời gian chờ kiểm
danh vào pḥng giam, Tù Nam Tù Nữ được phép “tranh thủ” ghé lại đọc
báo, hoặc mượn sách về đọc tại pḥng giam trong giờ nghỉ.
Thư viện cũng được dùng làm trạm thông tin, loan báo các tin tức
sinh hoạt của trại, và khuếch âm loan truyền tin tức của đài phát
thanh Nhà Nước, cho Tù biết về các sinh hoạt đang xẩy ra trên nước
Việt Nam Xă hội Chủ nghĩa. Nhờ thế, mới biết năm 1986, Gorbachev
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, chủ trương “đổi mới” để cứu văn
t́nh thế suy xụp của Liên Bang Xô Viết. Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng đưa ra khẩu hiệu “đổi mới”, và bầu Nguyễn văn Linh
đang là Bí Thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, người có chủ trương
“cởi mở”, vào chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng.
Sau khi nắm quyền được ít lâu, trong một cuộc họp với gần 100 văn
nghệ sĩ, Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh tuyên bố “cởi trói văn nghệ”,
khuyến khích họ viết sự thật, để xây dựng củng cố Chế độ và đất nước
trong thời b́nh. Chính Nguyễn văn Linh đă tiên phong nêu gương, viết
một loạt bài “Những việc cần làm ngay” với bút hiệu viết tắt NVL,
đăng trên các báo của Nhà Nước. Hai điểm chính ghi nhận là : -1, đả
kích các khuyết điểm của Chính quyền. -2. Chủ trương băi bỏ việc xét
lư lịch các học sinh vào Đại học, mở đường cho học sinh ưu tú con em
của các Viên chức Quân nhân chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hoà), và con em
thành phần Tư sản được nhận vào các trường Đại học.
Rút kinh nghiệm bài học vụ Nhân Văn Giai Phẩm, một thiểu số văn nghệ
sĩ có Đảng tịch kỳ cựu uống thuốc liều, dùng lời lẽ và hành động của
các nhân vật trong truyện của ḿnh, thẳng thắn phê b́nh gắt gao
đường lối lănh đạo sai trái của chính quyền, và sự tha hoá của các
cấp Lănh đạo. Nhóm đa số bảo thủ trong Đảng không chịu, chỉ trích
đ̣i trừng phạt nặng nề tác giả các tác phẩm loại “cởi trói” này. V́
thế, vừa “cởi trói” chưa được bao lâu, Nguyễn văn Linh phải “xét lại”
và ra lệnh “trói lại” chặt chẽ hơn.
Thân nhân “thăm nuôi” Tù cho biết, nhiều sách báo ngoại ngữ được đưa
vào trong nước, bằng bưu kiện công khai hoặc lén lút trong các thùng
quà, cung cấp tin tức rất lạc quan về một chương tŕnh tái định cư
quy mô trên đất nước Hoa Kỳ, cho các Tù nhân chính trị miền Nam cùng
gia đ́nh vợ con ra đi cùng một lượt. Nào là, Tướng Vessy được đề cử
đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ, tiếp xúc thường xuyên với Chính quyền
Cộng sản tại Hà Nội để hoàn tất chương tŕnh nhân đạo, giải quyết
nhanh chóng cho các Tù Chính trị miền Nam và Vợ Con sang định cư tại
Hoa Kỳ. Nào là, Căn cứ quân sự của Sư đoàn Hoa Kỳ tại Hawaii, đang
được trùng tu gấp để làm nơi cư trú tạm cho Tù Chính trị miền Nam và
gia đ́nh, hoàn tất các thủ tục hành chánh cần thiết, trước khi đưa
vào định cư chính thức tại các Tiểu Bang trên Lục địa Hoa Kỳ. Nào là,
mỗi gia đ́nh Tù nhân chính trị sang định cư, sẽ được cấp nhà ở, giúp
cho có công ăn việc làm, con được giúp cho tiếp tục theo học các
chương tŕnh văn hoá kỹ thuật theo ước muốn, được lănh một số tiền
bồi thường cho thời gian bị giam cầm... Trong khi những tin tức này
được đồn đăi, Chính quyền Cộng sản Việt Nam cũng cấp Hộ Chiếu, cho
một số Tù Chính trị được thả ra trước, có Vợ Con đang ở Pháp, Úc,
bảo lănh đi định cư theo diện đoàn tụ gia đ́nh. Một số có Vợ Con ở
Hoa Kỳ, được cho xuất cảnh theo “chương tŕnh bảo lănh ra đi trong
ṿng trật tự” (Orderly Departure Program).
Ngoài cái “quán bát giác” dùng làm Thư viện và trạm Thông tin, dựng
lên bên trong cổng trại giam, K1 c̣n xây dựng một Câu Lạc Bộ mới,
ngay bên đầu cầu Đập nước, rộng răi khang trang. Mặt tiền Câu Lạc Bộ
có một vườn bông, trang trí rất mỹ thuật, điểm thêm 2 nhà lồng nhốt
một con khỉ và một con công mầu sắc sặc sỡ.
Câu Lạc Bộ là một toà nhà vách gỗ mái tôn, bên trong phân chia ra
nhiều phần phục dịch riêng biệt ngăn nắp, hoạt động suốt 24 giờ
trong ngày, 7 ngày trong tuần. Có pḥng ăn uống rộng trông ra cảnh
đập nước, bầy biện những chiếc bàn thấp (vuông, tṛn) với những ghế
tựa, như trong các “quán bia ôm” nơi thành thị. Có quầy bán thức ăn
nóng, cà phê, trà, nước ngọt, và một loại nước trái cây để lên men
nhẹ đóng trong chai giống như bia. Có các kệ trưng bầy bán các thực
phẩm khô (ḿ ăn liền, bún khô, ḿ vắt, sữa, bánh, kẹo, bàn chải,
thuốc đánh răng, sà bông thơm, thuốc hút...). Có pḥng hớt tóc cho
đàn ông, chỉ c̣n thiếu pḥng uốn tóc sửa sắc đẹp cho phụ nữ. Có cả
những pḥng ngủ riêng, cho Cán bộ và các Tù Nữ phụ trách phục dịch
tại Câu Lạc Bộ.
Câu Lạc Bộ được thành lập để phục vụ cho thân nhân đến “thăm nuôi”
xử dụng, trong thời gian buổi trưa đợi gặp Tù vào đầu giờ lao động
chiều. Những trường hợp được ở lại thăm qua đêm, vợ chồng con cái Tù
cũng được phép dắt nhau tới Câu Lạc Bộ, mua thực phẩm ăn uống nếu
muốn, ngồi chơi chuyện tṛ ngắm cảnh Đập nước, và chụp h́nh kỷ niệm.
Các Cán bộ phục vụ trong Trại giam, cũng được tới lui xử dụng Câu
Lạc Bộ thong thả như mọi người, nếu muốn và có đủ tiền để chi. Ngoài
ra, Tù Nam Tù Nữ cũng được phép “đăng kư” ra Câu Lạc Bộ, vào buổi
tối từ 7 đến 10 giờ, mua nước giải khát, chè, hủ tiếu, ngồi ăn uống
thủ thỉ chuyện gẫu với nhau thoải mái, theo lịch tŕnh Trại quy định
trước. Những buổi như vậy, lệnh được loan báo qua loa phóng thanh
của Thư viện, Tù nào muốn đi ra tập trung bên “quán bát giác”, Cán
bộ phụ trách đến tập họp đếm đầu, rồi dẫn ra Câu Lạc Bộ và dẫn về
khu giam. Đây là phương cách làm “kinh tế”, theo sáng kiến của “Ban”
Nhu (Giám Thị, Bí thư Đảng ủy), nhằm mục đích thâu “lợi nhuận” dành
cho quỹ “Phúc Lợi” của Cán bộ Trại giam.
Tù chi tiêu bằng tờ biên nhận tiền do trại cấp, dựa theo số tiền gia
đ́nh đến “thăm nuôi” cho bao nhiêu cũng được. Nhưng Tù không được
giữ tiền mặt, phải nộp cho Trại đổi lấy giấy biên nhận theo h́nh
thức chứng phiếu. Mỗi lần mua hàng tại Câu Lạc Bộ, Cán bộ phụ trách
ghi trừ đi số tiền đă chi tiêu.
Đội chúng tôi cũng có vài Bạn “đăng kư”, ra giải trí buổi tối tại
Câu Lạc Bộ thử một đôi lần. Riêng tôi, khả năng tài chánh gia đ́nh
cho rất hạn chế, nên chỉ ra có một lần vào ngày Chủ Nhật, dịp “Ban”
Nhu cho lệnh Quản Giáo dẫn cả Đội ra “tham quan” khai trương Câu Lạc
Bộ. Ngày hôm đó, “Ban” Nhu ngồi cùng bàn với chúng tôi, nói chuyện
về các kế hoạch “làm ăn kinh tế” của Trại, và hỏi thăm về kinh
nghiệm hoạt động kinh tế của phe Tư bản, xem có điều ǵ hay sẽ đem
áp dụng. “Ban” Nhu gọi Cán bộ phụ trách và các Tù Nữ làm chiêu đăi
viên tại Câu Lạc Bộ, săn đón phục vụ cà phê, nước ngọt, bánh quy,
đậu phộng rang... cho chúng tôi (không phải trả tiền), y như đối xử
với khách thân t́nh của “Ban” Nhu chớ không phải Tù.
Sau buổi tiếp đăi tại Câu Lạc Bộ, Đội chúng tôi được “Ban” Nhu dẫn
đi “tham quan” Khu Nhà Thăm Nuôi mới, cách Câu Lạc Bộ khoảng 500 mét,
cũng ngay bên bờ Nam con sông, phía hạ lưu Đập Thủy Điện.
Rời Câu Lạc Bộ bên đầu cầu Đập nước, chúng tôi đi suôi theo con
đường kè đá, dọc ven sông có hàng cây mới trồng để tạo bóng mát, dài
khoảng 300 mét. Tới khúc sông lượn cong ṿng như bụng chữ S, có neo
một nhà gỗ kiến trúc rất đẹp trên chiếc phao nổi, h́nh thù giống như
một chiếc du thuyền sang trọng, mũi quay về hướng thượng nguồn. Từ
trên bờ cao muốn xuống, phải dùng cả chục bậc thang đá uốn khúc giữa
hàng cây bên bờ sông, rồi bước qua một cầu gỗ rộng 1 mét, dài 2 mét,
có tay vịn 2 bên. Đầu cầu phiá bên nhà nổi, được treo dây kéo lên hạ
xuống được, tùy theo mực nước cao thấp của từng mùa. Bên trong nhà,
phân chia ra nhiều pḥng tiếp cận nhau rất ngăn nắp, đầy đủ tiện
nghi. Tất cả đồ đạc đều bằng gỗ quư (cẩm lai, vàng tâm, gơ), do Tù
đốn ở rừng sát bên đất trại về thực hiện. Thoạt bước vào là pḥng
khách, tiếp sau là pḥng ăn, bên phải là bếp, pḥng vệ sinh, bên
trái là các pḥng ngủ. Dọc hông phao, phía ngoài pḥng ăn và pḥng
ngủ nh́n ra giữa ḍng sông, là một khoảng lan can rộng có mái che để
ngồi ngắm cảnh, giải khát, câu cá. Về phía cuối có mấy bậc thang để
leo lên tụt xuống sông bơi tắm.
Trong khi “tham quan”, “Ban” Nhu hỏi : “-Các Bác thấy sao? Đây là
nơi các Bác sẽ được xử dụng tiếp gia đ́nh, trong thời gian “thăm
nuôi” có được không?” Không ai nói ǵ, Tôi cười đáp lời : “-Thưa Ban
sang trọng quá, chẳng khác nào Ngự Thuyền trên sông Hương, nơi Cố đô
Huế thuở xưa vậy.”
Trong suốt thời gian chưa được tha, có gia đ́nh đến xin “thăm nuôi”
nhiều lần được ở lại qua đêm, nhưng chưa bao giờ chúng tôi được dùng
căn nhà nổi này. V́ nó được dành để tiếp đón các đoàn khách Nhà Nước,
thuộc hàng ít quan trọng “tham quan” Trại giam. Các đoàn khách quan
trọng, được đón tiếp lưu trú trên toà Nhà Thủy Tạ, dựng giữa hồ Đập
Thủy Điện nơi gần biệt thự riêng của “Ban” Nhu, sang trọng và lớn
gấp 3 căn nhà nổi neo tại đầu khu Vườn Tao Ngộ này. Từ bờ hồ ra toà
Nhà Thủy Tạ là một cây cầu gỗ, kiến trúc và sơn y hệt kiểu cầu Thê
Húc ra đền Ngọc Sơn, tại Hồ Hoàn Kiếm giữa Thủ đô Hà Nội. Dọc ven bờ
hồ nước, có các bồn bông, cây cảnh, với con đường kè đá trông rất
thơ mộng đẹp mắt.
Rời căn nhà nổi, chúng tôi đặt chân vào điểm khởi đầu hướng Đông của
khu Vườn Tao Ngộ h́nh bầu dục, nằm giữa 3 kiến trúc dựng lên theo
thế chân vạc. B́a ṿng cung bên phải là ḍng sông, có 2 khu nhà cách
nhau khoảng 200 mét. Khu ngay gần căn nhà nổi, gồm một dẫy nhà 5
gian dùng làm hội trường thăm gặp giữa Tù và thân nhân, và 1 căn nhà
3 gian đặt văn pḥng cùng nơi cư trú thường xuyên của Cán bộ phụ
trách điều hành công tác “thăm nuôi”, và bạn “Tù tự giác” phụ việc.
Tiếp theo là một con đường nhỏ chạy dài cả trăm mét, dưới giàn nho
dẫn tới Khu 3 dẫy nhà ngủ dành cho Tù và thân nhân cư trú qua đêm.
Con đường được đắp với mục đích biến ḥn đảo nằm giữa ḍng sông có
các dẫy nhà ngủ, trở thành dải đất liền vào bờ phía Nam. Các nhánh
giống nho, là của thân nhân bạn Tù phụ trách lái xe chuyên trở gia
đ́nh “thăm nuôi” từ “trạm đăng kư” ngoài đường Quốc lộ vào Khu Thăm
Nuôi, ương và đem từ quê miền Phan Rang đến tặng cho Trại để trồng.
Bià ṿng cung bên trái là ruộng mía. Đầu ruộng phía gần Đập Thủy
Điện có Xưởng sản xuất đồ gỗ, xẻ cây thành ván, và nhà ở của anh em
Tù Đội Mộc, chia thành “kíp” làm việc “thông tầm” suốt ngày đêm.
Phía sau ruộng mía chừng nửa cây số, là Khu tập trung các nhà giam
Tù thuộc Phân trại K1.
Khoảng chính giữa điểm ṿng cung sát bên ruộng mía, dựng một dẫy nhà
khách cao to rất đẹp, kiến trúc theo kiểu Nhà Ṛng của Sắc tộc
Thượng miền Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Vườn Tao Ngộ ở chính
giữa, là một công viên có nhiều đường nhỏ trải đá đi ṿng quanh
những bồn hoa cây kiểng, và một dẫy núi đá giả với tượng đài lập thể
xừng xững ngay chính giữa như Ḥn Vọng Phu. Thật là một công viên lạ
mắt, chưa từng thấy trên các nẻo đường Việt Nam, Âu, Á, Phi, Mỹ,
Trung Đông, mà Tôi đă có dịp đi qua trước đây.
Từ ngày anh Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh được chỉ định làm Đội trưởng,
anh em cảm thấy thoải mái hơn, nên gắn bó bên nhau cố gắng chu toàn
công tác trồng rau, ớt, bầu và đu đủ, đạt kết quả “thâu hoạch” rất
cao. “Ban” Nhu tỏ vẻ hài ḷng, “đổi mới” hẳn thái độ cư xử, lời nói
và cử chỉ lúc nào cũng nhẹ nhàng lịch sự đối với anh em trước mặt
mọi người. Các Cán bộ cấp nhỏ thấy thế, cũng noi theo không c̣n xấc
lấc kênh kiệu kỳ thị như trước.
Nhưng, để cô lập dễ kiểm soát hơn, ngoài việc bắt Đội ở ngoài “hiện
trường lao động” suốt ngày thường và những ngày nghỉ lễ. “Ban” Nhu
cho sửa sang lại căn pḥng ăn phía gần hàng rào, thuộc dẫy nhà đầu
bên Khu giam Tù Nam, để biến thành pḥng giam Đội chúng tôi. Căn
pḥng có một cửa ra vào, và 4 cửa sổ được ráp cánh cửa gỗ kiểu lá
sách xiên xiên để thông hơi, che nắng, cản mưa gió lùa trong mùa băo,
và dĩ nhiên có gắn song sắt nơi các khung cửa sổ. Một pḥng vệ sinh
rộng 1 mét vuông, được xây nơi góc pḥng để anh em tiểu đại tiện ban
đêm. Một kệ gỗ dài 2 tầng kê dọc tường, chia cho mỗi người một ngăn
để xếp tư trang và đồ tiếp tế riêng. Những người có nhiều quá, một
ngăn nhỏ không đủ, phải xếp đầy ngay cả phía dưới gầm giường nằm của
ḿnh, hoặc đem ra cất tại Nhà Lô của Đội để tiêu thụ dần hàng ngày.
Trong pḥng giam này, mỗi người được nằm một giường gỗ riêng rộng 70
phân, dài 2 mét. Mặt bằng trong pḥng không đủ chỗ kê giường đơn cho
tất cả mọi người, phải dùng thêm 2 giường 2 tầng cho 4 người. Ngoài
ra, 2 anh Đại tá Tô văn Vân và Dương hiếu Nghĩa được coi là “Tù tự
giác”, cho ăn ở ngày đêm tại Nhà Lô của Đội bên “hiện trường lao
động”, phụ với Quản Giáo Đội canh dụng cụ và hoa mầu chưa “thu hoạch”.
Chúng tôi phải dọn sang nơi giam mới này vào một ngày Chủ nhật, cả
trại nghỉ lao động. Buổi chiều cùng ngày, lúc anh em vừa chia nhau
ổn định xong chỗ nằm, thấy “Ban” Nhu ghé thăm. “Ban” đứng ngoài cửa
sổ song sắt nh́n vào, lên tiếng : “-Thu xếp để các Bác ở đây, cho
được riêng rẽ thoải mái hơn. Đối với các Bác, không cần phải đặt các
song sắt ở cửa như thế này. Nhưng v́ quy luật trại giam, không thể
biến chế được. Từ nay các Bác không phải xếp hàng kiểm danh, vào
pḥng giam buổi tối như các Đội khác nữa, cứ ở ngoài thoải mái. Bác
nào không ngủ sớm, có thể sang Nhà Họp ở phía bên hông Khu, xem Ti
Vi đến hết chương tŕnh th́ về. Lúc đó Trực Trại mới đến khoá pḥng,
cho các Bác ngủ qua đêm được an toàn.”
Nhà Lô hiện tại của Đội chúng tôi, thấp nhỏ chỉ có 1 gian 1 trái,
sát ngay bên bờ sông đối diện với Khu Nhà Thăm Nuôi mới. Quản giáo
Đội phải nằm nhờ bên Nhà Lô của Đội Nuôi Gà gần đó, để cho 2 anh Vân
và Nghiă nằm tại Nhà Lô của Đội. V́ thế, “Ban” Nhu cho xây dựng một
Nhà Lô mới, 3 gian rộng răi lợp tranh, nền đất đắp cao ráo, có sân
rộng chung quanh. Sân trước lập vườn bông, sân sau cất nhà bếp,
trông chẳng khác nào một biệt thự tư nhân nơi đồng quê miền Nam
trước 30-4-1975. Căn giữa kê mấy chiếc bàn dài có ghế 2 bên, để vừa
dùng làm nơi tiếp khách, họp Đội, và nhà ăn của anh em. Căn bên trái
có một dẫy xạp ngủ để anh em nghỉ trưa. Căn bên phải, nửa phía sau
là pḥng ngủ của Cán bộ Quản Giáo, nửa trước là kho cất dụng cụ của
Đội.
Khi dẫy nhà được dựng xong, chúng tôi phải san bằng đất làm sân
trước, sân sau, vườn bông, và đường đi. Lúc đang làm, “Ban” Nhu ghé
“tham quan”, vui vẻ lên tiếng hỏi : “-Mai mốt được ra về hết, các
Bác có nhớ căn nhà này không?” Anh em đồng thanh trả lời : “-Thưa
“Ban” nhớ chứ, quên sao được.” Quan sát thấy vẻ mặt “Ban” không hứng
thú lắm, với câu trả lời gọn lỏn này. Tôi lên tiếng góp chuyện :
“-Thưa Ban, căn nhà chỉ là vật chất, nó sẽ lụi tàn theo thời gian,
có ǵ mà đáng nhớ. Có nhớ chăng, là nhớ người có sáng kiến xây dựng
lên căn nhà này.” Ban Nhu tươi hẳn nét mặt, cười không ra tiếng, nói
tiếp : “-Có đất rộng răi, các Bác có thể nuôi gà đẻ trứng, trồng
thêm các loại rau đậu mà tăng cường chất tươi hàng ngày “bồi dưỡng”
cho nó mát ruột.”
Kể từ hôm ấy trở đi, trong Đội có vài người “tranh thủ” trồng một
vạt rau riêng nho nhỏ. Anh Sáu Đội phó và Tôi cũng trồng một khoảnh
có lẫn lộn mồng tơi, đay, xả, bạc hà, và rau răm, dọc bên ven đường
ngay đầu dốc xuống bến sông gần Nhà Lô cũ của Đội. Chúng tôi c̣n làm
một hốc cát nhỏ, để ủ đậu xanh làm mộng giá, đổ bánh xèo, bánh quai
vạc ăn vào những ngày Chúa Nhật. Mỗi lần gia đ́nh đến “thăm nuôi” ở
qua đêm, cũng được phép đem gà, vịt sống vào làm thịt cho Tù ăn “bồi
dưỡng”.
Gia đ́nh đi “thăm nuôi” cho biết, thường trên đường đi từ Thành phố
Saigon lên trại giam, bao giờ tài xế xe lô cũng ngừng giải lao đôi
chục phút tại Chợ Ông Đồn, để bà con ăn uống, mua thêm các món tươi
đem đi “thăm nuôi”. Đặc biệt thịt heo, gà vịt sống, và trái cây ở
chợ địa phương này bán rất rẻ so với Saigon. Lần nào đi thăm Tôi,
gia đ́nh cũng mua vài ba con gà gị đem vào làm thịt luộc ăn ngay,
và kho để ăn dần sau “thăm nuôi”. Mỗi lần như vậy, Tôi đều giữ lại 1
con không ăn để nuôi thả quanh Nhà Lô, chờ tới lứa gà đẻ lấy trứng
tươi ăn dần. Một năm sau, Tôi đă trở thành anh Tù tiểu tư sản của
Đội 23, có tới 3 con gà đẻ trứng tươi ăn hàng ngày.
Tôi làm một truồng nhỏ, sát phía sau nhà bếp để làm nơi trú ẩn cho
gà ban đêm. Mấy con gà Tôi nuôi, rất khôn và rạn người. Cả ngày
chúng chỉ loanh quanh bên Nhà Lô, không đi đâu xa. Hàng ngày, cứ tới
giờ giải lao giữa buổi lao động sáng và chiều, chúng dắt nhau ra
quanh quẩn nơi đầu dốc ở bến sông lên, đợi gặp Tôi phân phát quà
giun vàø sâu đất, bắt trong các luống rau. Trong khi chúng ăn, Tôi
đưa tay vuốt lưng hết con này đến con kia, y như vuốt lưng nựng mèo
nựng chó, chúng không sợ không bỏ chạy.
Có một lần “Ban” Nhu dẫn đoàn Thanh tra Trung Ương ghé thăm Đội, vào
đúng giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động sáng. Thấy cảnh mấy con gà
quấn quưt bên Tôi như vậy, họ cười nói với nhau có vẻ hănh diện thoả
măn. Họ ngỡ rằng, Chính sách Lao động Cải tạo Tư tưởng các Đại tá
Việt Nam Cộng hoà, trở thành người lao động Xă hội Chủ nghĩa của họ
đă thành công. Thấy vậy, Tôi lại biểu diễn thêm một màn ngoạn mục
khác trong giữa Nhà Lô, ngay trước mặt mọi người, cho họ thêm hí
hửng.
Sau khi ăn xong mấy con sâu đất trắng muốt, to dài bằng ngón tay út,
mấy con gà đang c̣n đói, le te chạy theo Tôi vào Nhà Lô như thường
lệ. Tôi vào chỗ để đồ tiếp tế riêng, bốc một nắm thóc trộn bắp đem
ra ngồi xuống, xoè tay cho mấy con gà tranh nhau mổ ăn ngay trên
ḷng bàn tay. Gà ăn một lúc hết nhẵn, nhưng vẫn quanh quẩn bên tay
Tôi như muốn đ̣i ăn thêm. Tôi phủi hai tay vào nhau rồi dơ cao lên
trên đầu 2 con gà, tức khắc chúng nằm bẹp xuống đất chớ không chạy.
Tôi thong thả dùng 2 tay đè nhẹ lên lưng, rồi luồn ṿng xuống bụng
bế chúng lên, đưa tới bàn nơi “Ban” Nhu và khách Trung Ương đang
ngồi, khoe : “-Ban coi, con nào con nấy béo nặng đáo để. Chúng cho
Tôi 2 lứa trứng rồi đó. Nhờ chúng, Tôi và anh Sáu Đội phó, có trứng
“bồi dưỡng” hàng ngày, nên Tôi thương chúng lắm. Buổi giải lao nào
cũng phải bươi đất, t́m cho chúng một ít sâu đất hoặc giun trong các
luống rau, để chúng “bồi dưỡng” tiếp tục đẻ trứng to và đều.”
Thực ra, chẳng phải nhờ học tập lao động cải tạo, Tôi mới biết công
việc nuôi gà. Thuở Thiếu thời, gia nhập Đoàn Hướng Đạo Sinh, Tôi đă
được tập luyện quen rồi. Hơn nữa, trước 30-4-1975, gia đ́nh Tôi cũng
đă có dựng một nhà lồng lớn trong sân nhà riêng, để các con của Tôi
học nuôi gà đẻ, gà thịt, và chim bồ câu theo lối công nghiệp, bỏ mối
cho bạn hàng trong Chợ Lớn, nên chẳng lạ ǵ. Nhưng Tôi không nói ra
điều này, để cho họ hí hửng, tưởng rằng Chánh sách hành hạ lao khổ
thâm độc vô nhân đạo của họ đă cải tạo được Tôi theo ư muốn.
Gần mùa Giáng Sinh 1985, Linh mục Bùi đức Sinh được “thăm nuôi”,
thân nhân đem cho vài kí lô nho đỏ. Ngài không ăn, đem rửa sạch cắt
nhỏ bỏ vào keo thủy tinh, rắc đường đậy nắp kín rồi để vào một góc
nhà. Ngài làm trước mặt chúng tôi và Quản giáo Đội. Ít ngày sau, nho
tiết nước ra biến thành loại rượu nho nguyên chất không cần ủ bằng
men, giống hệt loại rượu các Nhà Thờ thường dùng làm Rượu Lễ. Linh
mục nói đây là loại nước trái cây ủ cho lên men, giống như rượu mà
không phải rượu. Loại nước trái cây nguyên chất lên men này, dùng
uống mỗi ngày một ly “bồi dưỡng”, giúp cho máu huyết lưu thông điều
hoà rất tốt cho sức khoẻ. Ngài mời Cán bộ Quản giáo Đội và chúng tôi
dùng thử, mỗi người một chút cho biết mùi.
Riêng Tôi, biết được mục đích không phải để “bồi dưỡng”, mà dùng cho
nhu cầu mục vụ của Ngài. Sau này, nhờ sự “chiếu cố đặc biệt” của
“Ban” Nhu, anh em Đội 23 chúng tôi được nhận quà “thăm nuôi”, đem
thẳng ra cất tại Nhà Lô. Việc kiểm tra xét quà “thăm nuôi” của chúng
tôi, cũng do Quản giáo Đội phụ trách, không phải đem vào cho Trực
Trại kiểm như mọi người. Nhờ thế, anh Quỳnh Đội trưởng, được Linh
mục Sinh cử làm Ông Trùm Họ Đạo Z30D, đă lợi dụng cơ hội dễ dăi này,
đem được rượu nho chính cống của Nhà Thờ vào dùng. Linh mục Sinh
không phải làm lấy nữa.
Muốn giúp cho việc làm rượu của Linh mục Sinh, không bị Cán bộ nghi
ngờ, Tôi yêu cầu Ngài chỉ cho anh em cách thức làm, để dùng “bồi
dưỡng” hàng ngày. Chúng tôi c̣n làm cả rượu chuối, bằng cách cắt
chuối chín và tranh tươi thành những lát mỏng, xếp từng lớp chồng
lên nhau, theo thứ tự chuối, đường, tranh, đường, chuối, đường...trong
keo thủy tinh, rồi đậy kín lại để ủ cho thành rượu không cần men.
Chúng tôi để tại Nhà Lô, không mang vào Trại giam, dùng thoải mái
hàng ngày. Không bị coi là vi phạm Nội Quy Trại giam, v́ Cán bộ biết
rơ không phải rượu cất bằng men.
Để chuẩn bị ăn Tết Bính Dần-1986, anh Quỳnh Đội trưởng được “Ban”
Nhu nhờ về Saigon, đặt mua những ǵ đó không rơ. “Ban” cho xe hơi
nhỏ và Cán bộ đưa đi. Mọi người ở lại qua đêm tại nhà anh Quỳnh, hôm
sau mới trở về Trại. Sau chuyến đi này, Đội có thêm một số hạt giống
rau muống và rau cải loại tốt, năng xuất “thâu hoạch” cao hơn b́nh
thường. Mỗi tuần lễ 2 lần “thâu hoạch” rau nộp cho Nhà Bếp Trại. Lần
“thâu hoạch” nào anh em trong Đội cũng được thưởng, mỗi người một bó
rau nặng 5, 6 kí lô để ăn “bồi dưỡng”. Mùa mưa trồng rau muống, đọt
mập, thân dài cả 5, 60 phân. Chúng tôi cắt khúc ngọn và lá non dài
cỡ 15, 20 phân xào hoặc nấu canh ăn. Khúc thân c̣n lại, tuốt bỏ lá
đem muối dưa chua ăn dần, hoặc chẻ nhỏ ăn sống trộn dầu giấm muối
tiêu tỏi. Mùa nắng trồng cải củ, kết quả cũng rất khả quan. Củ nào
củ nấy to và dài cả 3, 40 phân. Chúng tôi cắt bỏ lá, xắt củ ra nhiều
khoanh nhỏ nấu canh tôm khô, thái mỏng xào trứng, hoặc làm gỏi thịt
gà xé phay. Một vài người c̣n xắt miếng nhỏ phơi khô, ướp nước mắm
cô đường để làm dưa món ăn dần.
Từ ngày Đội chúng tôi về định cư bên Khu Nhà Thăm Nuôi để trồng rau,
“Ban” Nhu cũng chỉ định một Thiếu úy làm Quản giáo thay Quản giáo cũ
chỉ là một Hạ sĩ quan. Qua cung cách cư xử, của “Ban” Nhu đối với
Quản giáo mới, trước mặt chúng tôi, cho phép nhận định ông ta là một
trong nhóm Cán bộ trẻ, được “Ban” Nhu tin dùng và thương. Hàng ngày
ông ta phải báo cáo thẳng với “Ban” Nhu, mọi diễn tiến sinh hoạt của
Đội chúng tôi, cũng như chuyển lệnh của “Ban” thẳng đến Đội trưởng,
không phải qua hệ thống Giáo dục của Trại. Ông này mặt mũi khôi ngô,
đẹp trai, tính t́nh nhă nhặn, luôn luôn tỏ thái độ tử tế với chúng
tôi, rất “văn nghệ” đối với các Cán bộ Nữ. Lúc nào cũng lịch thiệp
lễ độ, với các Bà ở lại với chồng qua đêm tại Khu Nhà Thăm Nuôi.
Luôn luôn dùng Nhân vật Đại danh từ “Bác” với các Bà, chớ không gọi
Chị này Chị kia. Nhưng oái oăm một nỗi, hàng ngày ông ấy quen mồm
gọi chúng tôi bằng “Anh”. Đến lúc có Vợ “thăm nuôi”, 3 người ngồi
nói chuyện, ông ấy gọi ḿnh là “Anh”, vợ ḿnh là “Bác” và xưng “Cháu”.
Thật khôi hài hết chỗ nói.
Thường Tết năm nào Trại cũng gói nấu bánh chưng, phát cho Tù mỗi
người 1 chiếc. Không biết tại sao, Tết Bính Dần-1986 Đội chúng tôi
lại được phát gạo nếp, đậu xanh, thịt heo và lá giong, để anh em tự
gói bánh và nấu lấy tại Nhà Lô của Đội. Chắc là do sáng kiến “đổi
mới, cởi mở” của “Ban” Nhu. Nhân đó anh em yêu cầu anh Đội trưởng,
đề nghị Cán bộ Quản giáo tŕnh “Ban”, cho phép anh em góp tiền ra
chợ ngay gần Trại, mua thêm gạo, đậu, thịt heo, lá và lạt bằng tre
giang, về gói cho mỗi người 4 chiếc, ăn thoải mái một lần trong mấy
ngày Tết.
Ba ngày trước đêm Giao Thừa, Quản giáo Đội cho biết, “Ban” Nhu chấp
thuận cho ông ta dẫn Đội trưởng ra chợ gần trại, mua gạo, thịt, đậu,
lá và lạt về cho anh em gói nấu thêm bánh chưng như đề nghị. Anh Đội
trưởng ngại đi một ḿnh phải xách nặng chịu không nổi, đề nghị cho
Tôi cùng đi để tiếp tay. Quản giáo “nhất trí” là sáng hôm sau, lúc
Đội xuất Trại ra tới Nhà Lô, chúng tôi sẽ đi chợ ngay. Sáng hôm sau,
ra tới Nhà Lô Đội, chúng tôi thấy Cán bộ Nữ Quản giáo Đội Nuôi Heo ở
kế bên, đang chờ tại đó để cùng đi chợ với chúng tôi. Có thể, Quản
giáo Đội chúng tôi muốn nhờ nữ giới sành việc mua bán, biết mặc cả
trả giá cho được rẻ. Cũng có thể, đoạn đường đi bộ hơi xa, ông ta
muốn đi bằng xe đạp cho đỡ vất vả, nên rủ Cán bộ Nữ đem xe đạp tới
để 4 người đèo nhau đi cho vui vẻ.
Quản giáo Đội đạp xe đèo anh Quỳnh Đội trưởng, ngồi trên poọc ba ga
(porte bagages) phía sau. Tôi phải đạp xe đèo Cán bộ Nữ, người nẩy
nở cân đối, mỏng mày hay hạt, da hơi ngăm ngăm bánh mật, trông có vẻ
như lai sắc tộc, người gốc Thanh Hoá, nặng khoảng 35 kí lô. Chúng
tôi không đi theo đường băng qua Trại chính, đi dọc bên này sông,
qua Đội Nuôi Gà, Đội Rau Nữ, Đội Nông Nghiệp, qua cầu gỗ băng sông
sang Khu Nhà Tiếp Thân nhân “đăng kư thăm nuôi” mới, ra quốc lộ rẽ
trái đi hướng Thuận Hải (Phan Thiết). Khúc đường đất, băng qua các
Đội trong lănh vực đất Trại, nhỏ, gập ghềnh, bề ngang vừa đủ cho một
xe ḅ di chuyển. Đạp xe phải lách qua lách lại, giữ thăng bằng tay
lái xe cũng hơi vất vả. Nhưng ra tới đoạn, từ khu Nhà Tiếp Thân nhân
“đăng kư thăm nuôi” ra đến chợ, là đường nhựa, thoai thoải lần lần
xuống dốc, xe chạy bon bon nhẹ nhàng thích thú.
Chuyến về, phải móc trên “ghi đông” xe, 2 giỏ chợ cỡ chục kí lô thịt
gạo đậu, lại nai thêm đằng sau lưng Cán bộ Nữ nặng 35 kí lô. Tôi đă
gần 6 chục tuổi đời, sau hơn chục năm lao động cực khổ trong các
Trại Tù, thiếu đói bệnh hoạn, sức khoẻ suy tàn, đạp xe thấy chật vật
nặng nề quá. Ra khỏi chợ đi được chừng 2 cây số, xe bắt đầu leo lên
dốc thoai thoải, dài cả 5, 6 cây số. Tôi phải nhổm người lên khỏi
yên xe, ráng dùng sức nặng của thân ḿnh, nghiêng qua nghiêng lại cố
gắng đạp, cho xe lăn tới từng nấc một, mà cũng hết muốn nổi. Mấy lần
tay lái bị đảo qua đảo lại, tiến lên không nổi nghiêng đi như muốn
đổ. Thấy vậy, Cán bộ Nữ bảo Tôi ngừng lại, xuống xách 2 giỏ chợ ra
ngồi phía sau, để cô ấy đạp xe cho. Cán bộ Nữ cũng xấp xỉ 30 cái
Xuân xanh rồi, nhưng chưa có đôi bạn, chưa chửa đẻ con nên c̣n rất
mạnh, đạp xe lên giốc nhẹ nhàng như không, chẳng khác nào “con gái
mười bẩy bẻ gẩy xừng trâu” như các Cụ ngày xưa thường ví. Ngồi sau
lưng, mũi vừa ngang tầm nách của người ngồi trên yên xe. Gió thoảng
liên tục, từ phía trước ra sau. Tôi phải nín thở, chịu đựng mùi mồ
hôi người mồ hôi nách, nồng nồng như tỏi, suốt khoảng đường dài gần
7 cây số, dưới ánh nắng ban mai hiền hoà thơ mộng, của rừng núi miền
Đông Nam Việt.
Đi ra chợ với chúng tôi, các Cán bộ mặc thường phục như dân chớ
không mặc sắc phục Công an, thế mà dân chúng địa phương cũng biết.
Họ không gọi là Cán bộ hay Đồng chí, cũng chẳng gọi là Chú Công an
hay Cô Công an như dân ngoài Bắc. Họ gọi bằng anh, bằng chị, một
cách đơn giản mộc mạc như đối với mọi người dân thường cùng trạc
tuổi đôi ba mươi. Có điều đặc biệt là họ vồn vă săn đón mời mọc mua
hàng một cách riết ráo, v́ thấy có chúng tôi đi theo, chắc chắn là
phải có nhu cầu mua sắm, chớ không phải chỉ đi “tham quan”.
Đây là một cái chợ nhỏ nằm trong ngơ, xen giữa những căn phố mái tôn
mái ngói lẫn lộn, ngay bên cạnh Quốc lộ, y như những chợ nhỏ trong
ngơ gần các khu chung cư vùng Bàn Cờ ở Saigon vậy. Chúng tôi tới vào
lúc chợ đang đông, khoảng trên dưới một trăm người, cả khách mua lẫn
kẻ bán. Mọi người ồn ào chen lấn nhau, giữa các quầy hàng bầy bán đủ
thứ : thực phẩm khô, hàng xén, hàng vải, hàng thịt, hàng tôm cá,
hàng rau, hàng quà bánh nóng... Cũng có một số khá đông không có
quầy riêng, ngồi xệp dài dài hai bên đường quanh chợ, bầy bán những
món hàng đựng trong thúng, trên mẹt, hoặc dăm bẩy con gà, con vịt,
chân cột dính trùm với nhau, nằm dẫy dụa trên mặt đất. Đường đi
trong chợ nền đất lầy lội, hôi tanh mùi cá mùi mắm. Tôi không tọc
mạch hỏi, nên không biết đây có phải là chợ Quận Hàm Tân hay không.
Mang tiếng nhờ nữ giới đi theo để trả giá mua cho được rẻ. Nhưng Cán
bộ Nữ này, quanh năm suốt tháng ăn cơm tập thể, chẳng hề đi mua bán
nấu nướng lấy bao giờ, làm sao biết giá thị thường mà mặc cả. Ghé
hàng này qua xạp kia, đâu cũng ra giá như nhau. Cô ta chỉ hỏi giá,
rồi chê đắt và hỏi có bớt không? Người bán không chịu bớt, chẳng
biết làm sao đành mua đại cho rồi, c̣n về chuẩn bị gói bánh cho kịp
đưa lên bếp, khởi sự nấu trước giờ nghỉ lao động chiều. Đối với
chúng tôi, giá cả rẻ đắt không thành vấn đề. Cả hơn chục năm trời
chịu thiếu đói, bây giờ có cơ may “ngàn năm một thưở”, mua được thứ
tươi ngon về ăn là tốt rồi, chẳng mong ǵ hơn.
Hôm đó là 2 ngày trước Đêm Giao Thừa, trừ mấy anh có những luống rau
chưa “thâu hoạch” phải tiếp tục đi tưới. C̣n lại bao nhiêu, Quản
giáo Đội cho phép miễn lao động, chia thành nhóm chuẩn bị gói nấu
bánh chưng. Thật là vui! Ngoài nhóm đi kiếm củi cành lớn và gốc cây,
cho đủ đun ninh bánh liên tục 12 tiếng đồng hồ. Các nhóm c̣n lại,
phải thực hiện cùng một lúc, các việc sau :
-1. Ngâm đậu xanh, cà đăi vỏ, nấu chín, giă nhuyễn, nắm thành những
nắm đều cho mỗi bánh 1 nắm.
-2. Cắt thịt ba chỉ (b́, nạc, mỡ) thành miếng đều nhau, ướp gia vị
hành tiêu nước mắm bột nêm cho vừa, mỗi bánh 2 miếng.
-3. Rửa lá, lau khô, tước sống và bỏ cuống lá, lựa lá nhỏ cắt lót
khuôn, 4 lá cho mỗi bánh. Lá to để nguyên dùng gói bọc bên ngoài mặt
bánh, mỗi bánh 3 lá.
-4. Chẻ lạt bằng tre giang, mỗi bánh cần 4 lạt. Một số đốt giang do
Trại phát, một số phải mua thêm ngoài chợ.
-5. Vo gạo để róc nước. Khi bắt đầu gói, rắc thêm chút muối, trộn
đều để bánh được đậm đà vừa ăn.
Khi mọi công tác chuẩn bị đă hoàn tất, những người phụ trách gói bắt
đầu ra tay. Nhóm gói gồm 3 người : các anh Trịnh đ́nh Đăng, Phạm tài
Điệt và Tôi. Anh Đăng rất thiện nghệ gói tay không cần khuôn, bánh
vẫn vuông vắn, đẹp với đủ 8 góc. C̣n anh Điệt và Tôi phải dùng khuôn
gỗ, do anh Đăng đóng, để gói cho được đều tay, vuông vắn đủ 8 góc,
không méo mó góc thấp góc cao. Khoảng hơn 3 giờ chiều, tất cả số
bánh dự trù cho chúng tôi, mấy cặp biếu “Ban” Nhu, Quản Giáo Đội, và
Cán bộ Thăm Nuôi, đều được gói xong đầy đủ. Bánh được cột thành từng
cặp, mặt trên của bánh áp vào nhau, xếp vào 2 thùng (một bằng tôn,
một bằng nhôm) đă bắc sẵn trên bếp, đổ đầy nước vào thùng và khởi sự
mồi lửa luộc. Các thùng nấu bánh, do anh Quỳnh nhắn gia đ́nh gửi lên
cho mượn. Chúng tôi thay phiên nhau canh, đẩy củi đun đến giờ Đội
rời Nhà Lô vào Trại, giao lại cho 2 anh Tô văn Vân và Dương hiếu
Nghĩa (giữ Nhà Lô) luân phiên nhau lo tiếp qua đêm. Gần hai bên hông
các thùng bánh, phải vần 2 thùng nhỏ đựng nước, để châm thêm vào các
thùng bánh trong suốt thời gian ninh. Lửa phải giữ cho cháy đều, và
canh chừng nước hơi cạn phải châm thêm ngay. Đến nửa đêm, phải đảo
bánh phía trên xuống phía dưới, để bảo đảm tất cả bánh được chín đều,
không chiếc nào bị hấy (có chỗ gạo chưa kịp chín). Sáng hôm sau
khoảng 9 giờ vớt bánh, xếp lên bàn ép cho nền, không c̣n nước ứ
trong lá mới để được lâu không bị chua hư. Chiều tối, trước khi trở
vào Trại giam, mỗi người lănh phần riêng của ḿnh, đem một chiếc vào
ăn đón Giao Thừa. Mấy chiếc c̣n lại, cất tại Nhà Lô để thưởng thức
dần trong 3 ngày Tết.
Không biết, v́ trái gió trở trời cuối năm làm gà bị dịch chết. Hay
muốn thanh toán lứa gà đẻ già, bằng lứa gà tơ mạnh đẻ trứng lớn bán
được giá hơn. Bỗng dưng, thấy Trại bán gà làm thịt sẵn, cho Tù mua
ăn Tết. Mọi người mừng rỡ vui vẻ đua nhau “đăng kư” mua. Người có
nhiều tiền lưu kư tại Trại, mua nguyên con để nửa luộc, nửa kho ăn
trong 3 ngày Tết cho đă thần khẩu. Kẻ ít tiền, chung nhau 2, 3 hoặc
4 người mua một con. Giá cả đồng nhất tính theo con. Ai hên gặp được
con to nặng. Ai xui gặp phải con nhỏ hơn đôi chút. Gà tuy già, đẻ
nhiều lứa, nhưng nuôi theo lối gà công nghiệp, đứng trong chuồng đẻ,
nên thịt vẫn mềm béo, không dai cứng như gà thả. Đợt bán hôm 30 Tết,
nhiều người chậm chân không mua được than phiền. Các Đội trưởng
“phản ảnh” lên “Thi Đua” báo cáo Cán bộ Trực Trại. Nhờ thế, chiều
ngày mồng Một Tết lại bán đợt thứ 2. Nhưng lần này, bị ế lại một số
con, loa phóng thanh của Thư viện phải ra rả rao hàng nhắc nhở điếc
cả lỗ tai.
Dịp Tết Nguyên đán Bính Dần-1986, “Ban” Nhu mới được thăng hàm Thiếu
tá, và làm Trại Trưởng thay ông Giám Thị Trại trưởng cũ bị Nhà Nước
cho “phục viên” (về hưu) sớm. Nhờ thế, “Ban” Nhu đặc biệt “chiếu cố”
cho Tù K1, Z30D được hưởng những dịp vui thật là “cởi mở, đổi mới”
chưa từng có, suốt thời gian cải tạo gần 11 năm qua, trên cả 3 miền
đất nước Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam. Mừng đón Tân Xuân, Trại tổ chức
một đêm Văn Nghệ thật đặc sắc, hấp dẫn. Ban Văn Hoá Trại tuyển lựa
một số Tù Nam Tù Nữ, “biên chế” thành lập Đội Văn Nghệ, tập luyện kỹ
càng, tŕnh diễn thành thạo, chẳng khác nào đoàn Văn Công thứ thiệt
Xă hội Chủ nghĩa. Một số ca, kịch sĩ, Tù Nữ duyên dáng, hấp dẫn,
tŕnh bầy rất thành thạo, khiến cử toạ (Cán bộ và Tù) vỗ tay hoan hô
nồng nhiệt, hô Bis! Bis! yêu cầu hát thêm.
Đêm mồng một Tết, “Ban” Nhu lệnh cho Cán bộ Trực Trại, dẫn các Tự
Quản Đội cả Nam lẫn Nữ (Đội trưởng, Đội phó), và toàn thể anh em Đội
Đại tá chúng tôi, đến Tư dinh của “Ban” bên bờ sông, gần Nhà Thủy Tạ
giữa hồ nước Đập Thủy Điện, đăi trà bánh. Trong cuộc vui, “Ban” Nhu
bỗng dưng hứng chí cất giọng hát một bài, rồi yêu cầu mọi người có
mặt, cũng phải thay phiên nhau hát hoặc kể chuyện giúp vui. Người
th́ hát, người th́ đàn, nhạc đỏ, nhạc vàng, nhạc Dân tộc, nhạc ngoại
quốc, ǵ cũng được hết. Ai không biết hát có thể kể chuyện vui,
thanh tục ǵ cũng không sao, miễn làm cho mọi người được dịp vui
cười thoải mái là được.
Đến lượt Linh Mục Bùi Đức Sinh, Ngài mở lời bằng một câu rào đón rất
ư là khôn ngoan : “-Kính thưa Ban Giám thị, kính thưa qúy Cán bộ,
kính thưa các bác Đại tá, và anh chị em. Tôi xin kể một câu truyện,
nhưng xin Ban Giám thị đừng cùm Tôi v́ câu truyện Tôi sắp kể.” “Ban”
Nhu nói : “-Hôm nay là ngày vui. Tôi sẽ không cùm ai hết, dù câu
truyện có xúc phạm đến cá nhân Tôi.” Được “Ban” Nhu xác định lập
trường rơ ràng trước mặt mọi người, Linh Mục Sinh yên tâm chậm răi
nói : “-Kính thưa Ban và Qúy vị, câu truyện của Tôi nói về 4 lợi ích
của việc hút thuốc. Một, không sợ chó cắn. Hai, không mất trộm ban
đêm. Ba, trẻ măi không già. Bốn, gia đ́nh hạnh phúc. Xin hết.” Mọi
người ngơ ngác nh́n nhau, không vỗ tay cũng chẳng cười. Tôi ngồi bên
cạnh Linh mục Sinh, hiểu ư Ngài nói khích “Ban” Nhu, v́ “Ban” ghiền
thuốc lá rất nặng. Hàng ngày hút liên tu bất tận, và chỉ hút toàn
thuốc ngoại loại đắt tiền. Tôi lấy tay bấm tay Linh mục nói nhỏ :
“-Ông già này vuốt râu hùm.” “Ban” Nhu suy nghĩ hồi lâu, mới cất
tiếng : “-Yêu cầu Linh mục giải thích.” Linh mục Sinh đáp : “-Thưa
“Ban”, 5 phút của Tôi đă hết.” “Ban” Nhu thủng thẳng nói : “-Tôi cho
Linh mục thêm 10 phút.” Lúc đó Linh mục Sinh mới giải thích :
“-Không sợ chó cắn v́ chống gậy. Không mất trộm v́ nằm ho suốt đêm.
Trẻ măi không già v́ chết sớm. Gia đ́nh hạnh phúc v́ cô đào chê mùi
thuốc.” Linh mục vừa dứt lời, mọi người ào ào vỗ tay tán thưởng. Câu
truyện thật thâm thúy ư nhị, “Ban” Nhu cũng vỗ tay. Mấy bữa sau,
“Ban” Nhu có dịp ghé thăm Đội vào giờ giải lao sáng tại Nhà Lô, Linh
mục Sinh cũng có mặt bên anh em. Anh Quỳnh Đội trưởng lấy thuốc
“555” ra mời, “Ban” Nhu khua tay nói : “-Linh mục dạy như thế, Tôi
từ nay không hút nữa.” Linh mục Sinh vuốt ve : “-Thưa Ban, tiết độ,
chừng mực, và làm chủ được ḿnh. Thật đáng ca tụng.”
Từ ngày khai trương Khu Nhà Thăm Nuôi mới, anh Đại tá Hồ Hồng Nam (Chiến
tranh Chính trị) thuộc Đội chúng tôi, v́ lư do an ninh không được di
tản ra Bệnh viện Phan Thiết, như các Tù Nữ và Tù Nam khác cấp bậc
nhỏ hơn, phải nằm điều trị dài hạn tại Bệnh xá Trại, là người được
gia đ́nh đến xin “thăm nuôi” đầu tiên. “Ban” Nhu cho phép thăm nhiều
ngày, và đặc biệt c̣n cho xe Mini Van riêng của gia đ́nh, vào đậu
tại Khu Nhà Thăm Nuôi. Sau mấy lần gia đ́nh đến “thăm nuôi” liền
liền, anh Nam nhận được lệnh tha ra khỏi Trại. Xe riêng của gia đ́nh
vào tận Khu Nhà Thăm Nuôi, đón chở anh ấy về nhà. Mấy tháng sau,
chúng tôi được tin anh Nam đă qua đời, trong cuộc giải phẫu gan tại
một Bệnh Viện trước kia rất nổi tiếng của Saigon.
Người thứ 2 thuộc Đội chúng tôi, được “Ban” Nhu cho phép thăm nhiều
ngày tại Khu Thăm Nuôi mới này, là anh Quỳnh Đội trưởng. Chị Quỳnh
được ở lại thăm 3 ngày 2 đêm. Sau ngày Chị Quỳnh “thăm nuôi” ra về,
“Ban” Nhu ghé thăm anh em chúng tôi tại Nhà Lô, hỏi thăm anh Quỳnh
thăm nuôi có được vui vẻ không? Rồi quay qua hỏi Tôi : “-Thế c̣n Bác
Hùng, kỳ Bà Xă tới thăm 24 giờ, vợ chồng già đánh được mấy quả?” Tôi
ngạc nhiên, không hiểu v́ sao con người luôn luôn nghiêm khắc khó
tính xưa nay, hôm nay lại dùng một câu hỏi bông đùa xuồng xă như vậy.
Tôi chậm răi trả lời : “-Thưa Ban, Vợ Chồng già, vấn đề sinh lư đâu
có phải là nhu cầu chính yếu của t́nh nghĩa. Xa nhau cả hơn chục năm
trời. Bao nhiêu thay đổi trong xă hội. Bao nhiêu chuyện gia đ́nh,
chuyện học hành của con cái cần phải trao đổi. C̣n thời giờ rảnh đâu,
mà nghĩ đến chuyện nhục dục. Nhất là t́nh trạng sức khoẻ của Tôi
chẳng mấy khả quan, như Ban và anh em vẫn từng thấy hàng ngày.”
“Ban” Nhu cười nói : “-Thôi được, hôm nào nhắn Bác gái lên. Tôi sẽ
cho Bác thăm 3 ngày liền, để vợ chồng có th́ giờ mà tâm sự cho nó
thoải mái.” Từ đó trở đi, anh em Đội chúng tôi, ai có gia đ́nh tới
“thăm nuôi”, muốn xin ở lại 2, 3 ngày đều được “Ban” Nhu chấp thuận
cho cả. Thực t́nh, không phải v́ nhu cầu sinh lư các Bà muốn ở lại
bên chồng, mà v́ muốn vài tháng một lần, giúp cơ hội cho chồng có
dịp được nghỉ lao động cực nhọc vài ngày cho nó khoẻ, nên mới chấp
nhận ở lại vậy thôi. Trong Đội chúng tôi, cũng không phải tất cả mọi
người đều xin “thăm nuôi” nhiều ngày. Phần lớn v́ hoàn cảnh sinh
hoạt riêng của gia đ́nh, chỉ xin thăm nuôi 4 tiếng đồng hồ, suốt từ
12 giờ bắt đầu nghỉ lao động buổi trưa đến 4 giờ chiều mà thôi.
“Hiện trường lao động” và Nhà Lô của Đội chúng tôi, ở ngay kế bên
Khu Nhà Thăm Nuôi mới, có dịp thấy hàng ngày lúc nào cũng đầy khách.
Tất cả Tù Nam Tù Nữø không bị kỷ luật, khi có người phối ngẫu tới
“thăm nuôi” muốn xin ở lại 24 giờ, đều được phép nộp đơn cho Cán bộ
phụ trách Thăm Nuôi vào đầu giờ thăm gặp. Ông này tập trung mang đi
tŕnh Ban Giám Thị cứu xét quyết định. Nếu được chấp thuận, lúc măn
giờ “thăm nuôi” sẽ được thông báo, và Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi dẫn
đến Khu Nhà Thăm Nuôi, cấp pḥng ngủ cho ở lại qua đêm.
Ăn Tết xong, mọi người lại miễn cưỡng lao đầu vào “đợt ra quân thi
đua mới”, để chuẩn bị đón mừng lần thứ 12 ngày thống nhất đất nước
30-4 và ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5. Đặc biệt năm nay, c̣n để
tham gia “Giải thi đua Trại Cải tạo Gương mẫu toàn quốc”.
ĐỔI MỚI, CỞI MỞ, CỞI TRÓI.
Mênh mông sóng hận dâng cao,
Căm thù sôi sục đồng bào đứng lên.
Gian manh muốn giữ vững quyền,
Bầy tṛ “đổi mới” cho yên tạm thời.
Cùng loài Chồn, Cáo, đổi ngôi,
Một ḍng Lang, Sói, hại đời khác chi.
Tam Vô, Bất nghĩa, Bất ngh́,
Mẹ Cha c̣n đấu, xá ǵ người dưng.
Thế thời căng chẳng đặng đừng,
Nới dây tơ mảnh, cột thừng chặt hơn.
Trổ nghề huưt sáo, rung đờn,
Gạt người lương thiện dâng hồn cho ma.
Hồ già xưa cũng ba hoa,
Lừa Dân, hại Nước mới ra nỗi này.
Mấy lần nhận tội, sửa sai,
Hứa nhăng hứa cuội, sửa hoài chẳng xong.
Nay c̣n chi nữa mà mong,
Công, Nông, Văn sĩ đồng ḷng đứng lên.
Quyết đ̣i Dân chủ, Nhân quyền,
Đ̣i thay Chế độ Nhất nguyên độc tài.
Ngày tàn hẳn đến nay mai,
Đảng đành nhịn nhục luồn ngoài nịnh trong.
Hoan hô hoà hợp Tây Đông,
Theo Góc-ba-chốp kiếm đồng tiền xanh. (dollar)
Nới tay bóp cổ Dân lành,
Tuyên ngôn “đổi mới” mời Anh, Mỹ vào.
Đổi Tù Chính trị giá cao,
Giao thương kinh tế, miễn sao sống c̣n.
Nhún nhường phân giải thiệt hơn,
Khuyên Tù ở lại, giang sơn cậy nhờ.
Quên đi quá thứ hận thù,
Chung lưng xây dựng lại Nhà Việt Nam.
Lời tuôn dịu ngọt như cam,
Hồ ly tinh đội xác phàm rủ rê.
“Ra đi sống kiếp làm thuê,
Ở nhà, Con gửi tiền về dưỡng nuôi.
Thân già hẳn sướng như Trời,
Bôn ba thêm mệt cuộc đời ích chi.”
Ậm ừ cho qủy khỏi nghi,
Hết tù, nhất quyết phải đi nước ngoài.
Cho con cháu có tương lai,
Cho ḿnh chuẩn bị một mai trở về.
Diệt bầy Cộâng, dựng lại quê,
Cho Dân Tộc được mọi bề Tự do.
Sống trong hạnh phúc ấm no,
Nhân quyền Dân chủ nở hoa sáng ngời.
K1, Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.
Mùa Xuân Bính Dần-1986.
HOME
(C̣n tiếp..) |