Chương 31
DÙNG CHÍNH SÁCH THÂM ĐỘC LAO ĐỘNG CẢI TẠO TƯ
TƯỞNG, CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐĂ THẤT BẠI Ê CHỀ.
(Hồi
Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)
Nguyễn Huy Hùng
Chuẩn bị mừng lần thứ 9, ngày Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975 của Cộng
sản Việt Nam, Trung Ương Đảng gửi phái đoàn hùng hậu đến Trại Z30C
tổ chức học tập 2 tuần lễ liền. May mắn là trong thời gian học tập
này, Đoàn Cán bộ không nhai lại như ḅ, những ǵ đă nhai liên tục
suốt 8 năm qua. Họ tŕnh chiếu một bộ phim dài cả hơn chục cuốn,
phải ngồi chồm hổm trên nền đất nhà Hội trường mái tôn, chặt cứng
như nêm, ngột ngạt đủ thứ mùi vị nồng nặc từ cơ thể mọi người toát
ra, xem liên tục nhiều ngày mệt mỏi hơn đi lao động ngoài đồng nhiều.
Đây là bộ phim được dàn dựng theo loại phim tài liệu lịch sử, ghi
lại các chiến thắng của Cộng sản Việt Nam từ năm 1945 cho tới
30-4-1975, với mục đích tuyên truyền, khoa trương những góc cạnh có
lợi, nhằm đánh bóng và thần thánh hoá các hành động của Cộng sản
Việt Nam.
Nhưng đối với những người có tinh thần Quốc gia Nhân bản kiên định,
không những chẳng xiêu ḷng thán phục, mà lại càng thấy rơ ràng hơn
mặt thật xảo trá, bịp bợm tinh vi, trơ trẽn vô nhân đạo của Cộng sản
Việt Nam dă man “Hại Dân Hại Nước”, chớ không phải “V́ Dân V́ Nước”
suốt 30 năm qua, nay vẫn đang tiếp tục.
Người ta đưa vào phim những khuôn mặt lớn của Cộng sản, như Hồ Chí
Minh, Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Vơ nguyên Giáp, Lê dức Thọ... Bên
phía Quốc gia chống Cộng, họ cũng đưa vào h́nh ảnh của Cựu Hoàng Bảo
Đại, Thủ tướng Trần văn Hữu, Nguyễn văn Tâm, Tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm, Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, một vài Tướng lănh Việt Nam Cộng hoà...,
và một số nhân vật Chính trị Quân sự của Hoa Kỳ và Pháp đă đóng vai
chính yếu trong cuộc chiến Việt Nam. (Thời gian qua đi đă lâu quá
rồi, hơn nữa ngồi xem trong t́nh trạng bị ép buộc, không quan tâm
chăm chú xem những dự kiện ghi nhận một chiều, nên Tôi không nhớ các
chi tiết “cụ thể” trong phim nên không ghi lại như mong muốn.)
Tất cả những người thuộc phe Quốc gia Tư bản, được cho xuất hiện
trên phim trong một thời gian rất ngắn, với những trích đoạn lời
phát biểu dưới góc cạnh có lợi cho Cộng sản, nhằm mục đích chứng
minh nhân chứng của các sự kiện, theo mốc thời gian lịch sử đă xẩy
ra trong quá khứ mà họ có dự phần.
C̣n các nhân vật Lănh tụ Cộng sản, bao giờ cũng được phô trương lâu
và nói dai nói dài, theo quan điểm chỉ đạo của Cộng sản Quốc tế mà
họ lệ thuộc, với những lời lẽ chải chuốt tuyên truyền, tâng bốc cái
khí thế của làn sóng Cách mạng Vô sản đang cuồn cuộn dâng lên, và
cái thế yếu xuy thoái, đang rẫy chết của Hoa Kỳ và phe đồng minh Tự
do Tư bản.
Sau đợt học tập, các Đội lại phải thi hành cái thông lệ, họp riêng
tại Láng dưới sự giám sát của Quản giáo, để mọi người thay phiên
nhau phát biểu ư kiến tổng kết “thâu hoạch”, ghi biên bản tŕnh
những ǵ đă hấp thụ được sau các buổi học tập bằng phim ảnh.
Dĩ nhiên, kết quả bao giờ cũng mỹ măn “đạt mục đích yêu cầu”. Mọi
người đều phải “nhất trí” “Cách mạng Vô sản Việt Nam là đỉnh cao trí
tuệ”, “anh hùng vô địch đă đánh thắng cả 2 Đế quốc Pháp và Mỹ giầu
mà không mạnh”..., cũng như phải kết luận phần tŕnh bầy của ḿnh
bằng câu : “...luôn luôn cố gắng cải tạo cho tốt, để sớm được trở về
đoàn tụ với Vợ Con, tuân theo luật lệ của Đảng và Nhà Nước Cộng hoà
Xă hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng đất nước...” Không ai ngu dại ǵ
mà nói rằng : “-Cộng sản Việt Nam là tay sai của Đế quốc Đỏ Liên Xô,
Trung Cộng, được các nước Cộng sản quan thầy cung cấp vũ khí đạn
dược và Cố vấn tham gia điều khiển, thi hành kế hoạch xâm lược miền
Nam Việt Nam và toàn Bán đảo Đông Dương, để làm bàn đạp bành trướng
xuống toàn vùng Đông Nam Á Châu...”
Kỳ Học tập chấm dứt, nhiều đợt tha Tù lại tiếp tục xẩy ra. Những tin
đồn Chính phủ Hoa Kỳ đang chuẩn bị đón tiếp Tù Chính trị tới định cư,
cũng dồn dập vào trại theo các đợt “thăm nuôi” hàng ngày. Các sự
kiện này cho phép nhận định, mục đích chính của đợt học tập kỳ này,
nhằm tuyên truyền lôi cuốn Tù Chính trị c̣n “nhẹ dạ cả tin” ở lại
trong nước, để Việt Cộng lợi dụng làm công cụ câu tiền của Hoa Kỳ
trong tương lai.
Khi lúa sắp sửa trổ đ̣ng đ̣ng, chúng tôi lại được tăng phái đến làm
cỏ và phát bờ ruộng cho một Đội Nông Nghiệp khác, ở phía mút hướng
Tây của Trại. Cây lúa cao ngang bụng, cả Đội xếp hàng ngang, dùng
cuốc vừa cà cỏ nhặt vứt lên bờ vừa vun gốc lúa. Lá lúa nhỏ dài, ngọn
lá nhọn, cạnh bén như lưỡi dao. Mỗi khi cúi xuống ngẩng lên, đều bị
lá lúa đâm cứa vào mặt vào tay, làm rặm ngứa xót khó chịu vô cùng.
Làm trong ruộng lúa dưới trời nắng, hầm nóng, bực bội, khiến cho
người ta dễ nổi tính cáu bẳn một cách vô lối. Tôi đă lỡ làm một việc
khiến cho anh em cả Đội, rơi vào một hoàn cảnh thật khó xử. Đầu đuôi
câu chuyện như sau :
“Hàng ngày đến “hiện trường lao động”, Quản giáo Đội ra lệnh cho anh
Đội trưởng cung cấp 2, 3 người để chuốt đũa bằng cuống lá buông, cho
ông ấy đem bán kiếm tiền xài. Anh em trong Đội phải nỗ lực làm nhiều
hơn để bao phần của các anh ấy, mới hoàn tất được chỉ tiêu quy định
cho Đội phải thực hiện trong ngày. Mọi người vừa làm vừa nói chuyện
bông đùa cho quên thời gian vất vả. Bỗng tôi nghe thấy anh Z. (gốc
Cảnh sát) được chỉ định chuốt đũa cho Cán bộ, đến báo cáo với Cán bộ
là, anh ta đến gặp thủ kho Đội chủ nhà mượn dao bén nhưng không có.
Cán bộ cứ nhất định là có. Hai người nói qua nói lại, sau cùng anh
Z. kết thúc bằng câu đại ư nói, nếu Cán bộ không tiếp xúc thẳng để
có dao đưa cho anh ấy, th́ anh ấy chịu không thể thi hành lệnh của
Cán bộ được.” Tôi ngứa miệng nói đổng : “-Sao ngu quá vậy, không có
dao th́ lấy răng mà cạp.” Các bạn làm gần quay lại ngó, rồi từ từ
lảng dần ra chỗ khác xa Tôi.
Một lúc sau, anh Đội trưởng (Trung tá Cảnh sát Phan trung Chánh) đến
khu chúng tôi đang làm hỏi : “-Anh nào vừa nói ǵ mà lấy răng cạp?”
Không ai trả lời. Anh ấy đến bên từng người hỏi có nghe ai nói không?
Mọi người đều lắc đầu nói không nghe. Riêng Tôi th́ anh ấy không hỏi.
Đến hết giờ lao động buổi chiều, Đội tập họp đi tắm trước khi về Khu
giam. Cán bộ đến đứng trước Đội, hỏi : “-Trong lúc lao động anh nào
nói ǵ, có ai biết ai nói không?” Không ai trả lời, Tôi cũng yên
lặng. Cán bộ nói tiếp : “-Nếu không t́m ra được người đă phát biểu
linh tinh lúc năy, bắt đầu từ chiều nay Đội bị phạt không được đi
tắm sau giờ lao động, cho đến khi nào t́m ra được người nói mới thôi.”
Chiều đó chúng tôi không được đi tắm, anh em trong ḷng chắc phiền
lắm, nhưng không ai nói ǵ. Mọi người yên lặng trở về Khu giam,
không x́ xầm hay nói một tiếng nào tỏ ư phiền hà Tôi cả. Buổi sinh
hoạt Đội trong pḥng giam hàng đêm, cũng không thấy ai nhắc tới
chuyện đă xẩy ra. Tôi cảm thấy ân hận, suy nghĩ trằn trọc suốt đêm
không ngủ được. Tôi bàn với anh Nguyễn văn Sáu Đội phó nằm bên, sáng
mai Tôi sẽ nhận tội, rồi ra sao th́ ra. Anh ấy gạt đi nói : “-Cứ lờ
đi, rồi mọi việc sẽ qua.” Nhưng Tôi nghĩ chuyện không đơn giản như
vậy. Hồi mới về đây, Tôi đă bị Quản giáo gọi “làm việc” về vụ tự
động vần đá vào bóng râm ngồi đập. Chắc hẳn Quản giáo vẫn đang theo
sát Tôi t́m sơ hở, để kỷ luật rằn mặt.
Sáng hôm sau, từ lúc bắt đầu lao động, anh Đội trưởng đến gọi lần
lượt từng người, chiều hôm trước lao động gần bên Tôi, đến gặp Cán
bộ “làm việc”. Mỗi người phải “làm việc” lâu từ 10 đến 15 phút. Khi
trở ra chẳng anh nào nói năng ǵ, lẳng lặng tiếp tục lao động. Tôi
đến gần hỏi th́ các bạn cho biết là hỏi chuyện chiều hôm qua. Ai
cũng nói anh em vừa làm vừa nói chuyện bông đùa với nhau, nên không
nghe và cũng không biết người nào đă nói như vậy. Không muốn để anh
em tiếp tục bị phiền hà v́ việc làm của ḿnh, Tôi yêu cầu anh Đội
trưởng xin cho Tôi gặp Cán bộ Quản giáo tŕnh bầy về việc chiều hôm
qua. Anh ấy xửng sốt nh́n Tôi với vẻ ái ngại, nhưng cũng đi tŕnh
Quản giáo. Một lúc sau anh Đội trưởng đến cho biết, Quản giáo bằng
ḷng gặp Tôi vào giờ giải lao.
Lúc bắt đầu nghỉ giải lao, Tôi đem Gô nước trà và bao thuốc lá thơm
tới gặp Quản giáo. Ông ta đang ngồi một ḿnh bên gốc cây, xa chỗ anh
em ngồi nghỉ khoảng 100 mét. Tôi đến cách 1 mét đứng lại báo cáo
tŕnh diện, như thường lệ mỗi khi Tù gặp Cán bộ. Ông ta nói : “-Anh
ngồi xuống đây, có việc ǵ vậy?” Tôi thong thả ngồi xuống, đưa Gô
trà nóng và bao thuốc lá thơm mời ông ta dùng, rồi chậm răi tŕnh
bầy : “- Trước nhất Tôi xin lỗi đă làm phiền ḷng Cán bộ, và anh em
trong Đội từ chiều hôm qua đến giờ. Tôi là người đă nói câu “sao ngu
vậy, không có dao th́ lấy răng mà cạp”. Tôi nói câu này, v́ trong
lúc anh em vừa lao động vừa kể lại câu chuyện cũ, xẩy ra từ hồi c̣n
ở ngoài trại Thanh Phong. Có một anh khát nước quá, muốn ăn vụng mía
trong ruộng, lại không có dao nên chẳng biết làm sao. Tôi buột miệng
góp chuyện bằng câu : “-Sao ngu quá vậy, không có dao th́ lấy răng
mà cạp”. Chắc Cán bộ cũng “nhất trí”ù với Tôi, đâu phải lúc nào ăn
mía cũng cần tới dao. Ḿnh có thể dùng răng tước vỏ, rồi cắn gẫy
từng mẩu nhỏ để ăn cũng được. Như vậy, lời góp ư của Tôi vào câu
chuyện anh em đang nói là thật t́nh, có ư ǵ khác đâu? Tôi không hề
nghe thấy anh Z. báo cáo với Cán bộ là, không mượn được dao để chuốt
đũa cho Cán bộ. Đây là sự trùng hợp đáng tiếc, Tôi không ngu dại ǵ
mà nói anh Z. như vậy. Xin Cán bộ rộng xét bỏ qua cho. Nếu Cán bộ
muốn kỷ luật th́ kỷ luật Tôi, chớ anh em trong Đội không can hệ ǵ.”
Ông ta ngồi hút thuốc và uống trà nóng do Tôi đem tới mời, mắt nh́n
về phía anh em ngồi nghỉ giải lao, yên lặng nghe tŕnh bầy không nói
ǵ. Khi Tôi vừa dứt lời, ông ta mới quay lại nh́n Tôi, và nói :
“-Anh có tinh thần tự giác nhận sai trái của ḿnh như vậy là tốt.
Thôi được rồi, đi về Đội lao động với anh em.”
Hết giờ lao động sáng, Đội được đi tắm trước khi về trại giam, mọi
người vui vẻ, không khí nặng nề không c̣n nữa. Thế rồi, một ngày,
hai ngày, ba ngày qua đi, không thấy ǵ, mọi người thở phào nhẹ nhơm,
mừng cho Tôi tai qua nạn khỏi không bị kỷ luật. Theo suy đoán riêng,
câu Tôi nói chẳng có ǵ là “phản động chống đối chính sách của Nhà
Nước”. Nếu tŕnh lên, Tôi sẽ bị Cán bộ Giáo dục của Trại và Cán bộ
An ninh gọi lên “làm việc”. Tôi sẽ chẳng sợ ǵ mà không khai sự thật,
sẽ ḷi ra điều sai trái của chính ông ấy, lợi dụng Tù làm việc riêng
cho ḿnh trong giờ lao động để kiếm tiền. Chắc chắn ông ta sẽ phải
lănh tai họa kỷ luật trước Tôi, nên ông ta mới phải bỏ qua, mặc dù
rất căm giận.
Khi trại bắt đầu thu hoạch vụ lúa Chiêm, Đội chúng tôi được cấp cho
một “hiện trường lao động” riêng, sát bên bờ sông, về hướng Tây Nam,
để trồng rau, bí ngô, và bầu. Muốn tới nơi lao động mới này, phải đi
ṿng vèo một đoạn đường khoảng 3 cây số, xuyên ngang các khu lao
động của 3 Đội khác. nằm sát bên bờ sông phía Bắc, Tây Bắc, và Tây
của K1 Trại Z30C.
Như vậy, Đội chúng tôi đă được đưa đi lao động trên khắp mặt địa bàn
K1 của trại Z30C. Hiện trường lao động của các Đội hướng Đông Bắc,
Bắc, Tây Bắc, và Tây đều nằm sát bên sông, cho phép kết luận : “K1
là một vùng đất nằm trong khúc quanh, của con sông dài chẩy từ Trại
Z30D Thủ Đức qua.”
Khúc sông chẩy sát bên khoảnh đất dành cho Đội chúng tôi, h́nh ṿng
cung, bao bọc các hướng Tây và Nam của “hiện trường lao động”. Triền
bờ 2 bên sông thẳng đứng, cao hơn mặt nuớc 1 mét. Bờ này cách bờ kia
khoảng chục mét. Nước chảy lừ đừ, chính giữa ḷng sông chỉ sâu cỡ
ngang ngực, lội qua lại dễ dàng. Chúng tôi mở 2 bến lên xuống, gánh
nước tưới cho các luống rau rất tiện lợi và nhanh. Việc tắm giặt của
anh em cũng rộng răi thoải mái, không bị cảnh tắm nước đục v́ đông
người xuống cùng một lúc. Bên kia sông là rừng cây, không thấy bóng
người qua lại. Thỉnh thoảng có vài bạn Đội Lâm Sản lội về ngang, đem
theo những bó măng tre rừng. Những Tù trong Đội Lâm Sản được coi là
“Tù tự giác” đi lao động một ḿnh, không cần Cán bộ theo coi chừng
như các Đội khác. Đội chúng tôi chẳng hạn, hàng ngày đi lao động,
ngoài Quản giáo Đội c̣n có thêm 2 cảnh vệ, mang súng AK đi canh
chừng.
Rau và bầu chúng tôi trồng tỉa tăng trưởng rất nhanh. Vừa tới kỳ thu
hoạch, bị mất trộm một mẻ rất lớn. Chỉ qua có một đêm, kẻ trộm nhổ
một loạt 4, 5 luống rau, dài 25 mét, rộng 1 mét, mơn mởn tốt nhất
trong khu. Đồng thời, lựa cắt những trái bầu lớn và dài, chớ không
thèm lấy trái nhỏ.
Vụ trộm được coi là có tổ chức quy mô, không phải tầm thường. Hàng
đêm, luôn luôn có toán Cảnh vệ đi tuần tra canh pḥng cẩn mật, trên
khắp các khu vực đất canh tác, thuộc quyền sở hữu của Trại. Mấy bạn
Tù “tự giác” được ở tại Nhà Lô với Quản giáo kế cận “hiện trường lao
động” của Đội chúng tôi, chắc không bao giờ dám làm cái việc liều
lĩnh này. Vậy th́ ai? Hẳn là phải có sự mưu mô toa rập, giữa Cán bộ
trong trại và dân chúng ở quanh vùng gần trại. Họ tẩu tán đem qua
sông, chớ không thể chuyển vận một số lượng rau nhiều như thế, theo
các đường đi bên trong trại. Cán bộ An ninh mở cuộc điều tra nhiều
ngày, đi tới đi lui “làm việc” với một số anh em trong Đội chúng tôi.
Chẳng ai biết kết quả sau cùng ra sao.
Ít ngày sau vụ mất trộm, Đội chúng tôi và Đội Nông Nghiệp đang gặt
lúa kế cận gặp một tai họa thật hi hữu, vào một buổi chiều lúc gần
giờ nghỉ lao động. Tai họa không nguy hiểm, nhưng đủ làm mọi người
kể cả Quản giáo và Cảnh vệ, bị một phen tản thần không bao giờ quên
được. Chuyện như thế này :
Đầu giờ lao động buổi chiều, tại “hiện trường lao động”. Anh em
xuống bến sông phía Tây của Đội, gánh nước tưới rau. Thấy có một bầy
ong bu đen to cỡ một bao gạo trăm kí lô, trên cành cây cao phía bên
kia sông. Một số con bay lượn chung quanh như đám lính canh pḥng
tuần tra. Một vài con bay lượn sang tận bên này sông, kêu vo vo
nhưng không làm ǵ ai. Anh em yên tâm lao động, không ai quan tâm
đến bầy ong đang đậu nghỉ cánh này nữa.
Đến gần giờ nghỉ lao động chiều, sau khi đă tưới xong hết các luống
rau, anh em xuống tắm rồi lên ngồi bên Nhà Lô nghỉ ngơi đợi giờ tập
họp trở về Trại giam. Bỗng thấy anh Đại tá Nguyễn văn Phúc, từ bến
tắm hớt hơ hớt hải chạy lên, tay khua quanh mặt đuổi những con ong,
đang đua nhau nhào vào đốt, y như các phản lực cơ nước chim chích
tấn công người khổng lồ.
Những người đứng chơi bên dọc đường anh Phúc chạy ngang, cũng bị ong
bay sà sà quanh mặt, quanh đầu, quanh người, kêu vo vo như đùa rỡn
làm cho nhột nhạt sợ hăi. Người nào gan dạ, đứng im không nhúc nhích
không bị đốt. Người nào chịu đựng không nổi sự đùa rỡn của ong, lấy
tay khua đuổi tức th́ bị chúng đổi giọng kêu, gọi nhau nhào tới đốt
túi bụi ngay.
Hầu như mọi người ai cũng bị đốt chạy tán loạn. Tôi và một số anh
đứng ở bến tắm phía Nam, cách bến phía Tây cả 500 mét, cũng bị ong
bay tới quấy nhiễu đốt cả chục mũi lên mặt, lên đầu. Có người chạy
vào Nhà Lô, đứng phía sau bếp đun nước đang có khói, ong không dám
tới gần. Nhưng rời khỏi khu bếp, lại bị ong bay quấn chung quanh
ngay. Có người đang tắm ở bến, bị ong sán đến gần phải lặn xuống
nước lỉnh ra chỗ khác. Nhưng ong vẫn bay rà theo trên mặt nước, đợi
khi nhô đầu lên là sà vào chích liền.
Đội bạn đang gặt lúa gần bên Đội chúng tôi, cũng bị ong nhào tới
chích tán loạn. Anh bạn Đại tá Vơ hữu Bá thuộc Đội chúng tôi, bị một
con ong chui vào trong lỗ tai, làm mọi người quưnh quáng chẳng biết
làm sao. Thật kinh hoàng! Quản giáo phải quyết định cho Đội tập họp
về ngay, để anh Bá vào Bệnh xá cho người ta lấy kẹp gắp con ong ra.
Suốt dọc đường đi về, vẫn có mấy con lẽo đẽo bay theo chúng tôi đến
tận Trại giam, cách xa “hiện trường lao động” cả 3 cây số. Có lẽ
chúng bay theo tiếng kêu cứu, của con ong mắc kẹt trong lỗ tai anh
Bá, để t́m cách cứu đồng chủng.
Người nào cũng bị tối thiểu từ năm bẩy mũi trở lên, chẳng ai thoát
nạn cả. Tôi chùm khăn lông kín mặt đầu và cổ, vẫn bị chích cả thẩy
chục mũi ở trán, hai bên tai và phía sau ót. Rất may, không phải
loại ong độc, những chỗ bị chích trên mặt trên đầu, chỉ xưng đỏ tấy
đau nhức nhối, không làm độc đến nỗi bị nóng sốt. Phải dùng 2 ngón
tay, bóp nặn chiếc kim ong chích đứt lại trong da bật ra, thoa chút
dầu gió lên, một lúc sau mới bớt đau nhức.
Sáng hôm sau, trên đường ra hiện trường lao động, mọi người bàn tán
không biết phải làm sao giải quyết vụ bầy ong. Nếu không, lại bị
chúng đuổi đốt sẽ chẳng làm được ǵ. May thay, lúc đến gần Nhà Lô
của Đội, mọi người cùng thở phào nhẹ nhơm, bầy ong bu trên cây đă
biến mất. Chúng đă cuốn gói ra đi, không c̣n thấy bóng dáng một con
nào.
Sau vụ bị trộm rau ban đêm chừng nửa tháng, Đội chúng tôi được di đô
về gần Đội Nuôi Heo, sát bờ sông phía Bắc, cũng tiếp tục trồng rau.
Khu vực này chỉ cách khu giam chúng tôi có khoảng 1 cây số. Cả Đội
phải xúm vào phát quang, dải đất bên đường dọc theo bờ sông, phân
thành khu có đường nhỏ đi chung quanh. Xong xuôi bắt đầu vào trồng
tỉa. Mỗi người được giao trách nhiệm lo toan chăm sóc 5 luống, dài
25 mét, rộng 1 mét. Phải tự cuốc đất, lên luống, xẻ rănh reo hạt,
tưới nước ngày 2 đợt, làm cỏ, bón xới, chăm sóc cho tới ngày “thu
hoạch”.
Thời gian trồng mỗi đợt rau, tính từ khi reo cho tới lúc “thâu hoạch”
ước chừng 4 tuần lễ. Sau khi “thâu hoạch” xong, mỗi người lại phải
cuốc lật đất, lên luống... tiếp tục reo trồng đợt khác. Đặc biệt chỉ
có “công đoạn” reo hạt, được anh Sáu Đội phó tiếp tay từng người,
theo chương tŕnh anh ấy quy hoạch trước.
Khu đất trồng rau dài dọc bên sông, chúng tôi phải dọn 2 bến lên
xuống, để gánh nước tưới cho tiện, đỡ mất th́ giờ di chuyển xa.
Triền bờ sông thẳng đứng, cao hơn mặt nước 2 mét, do đó phải thực
hiện đường lên xuống, khúc khuỷu theo h́nh chữ chi, với các nấc
thang rộng 60 phân, cao 30 phân. Các bậc đất phải tu sửa luôn, v́
nước trong thùng gánh từ sông lên, sóng sánh tràn ướt liên tục phá
hư. Mùa mưa mới thật vất vả trần ai, lên xuống gánh nước lúc nào
cũng bị trơn trợt khó khăn vô cùng.
Mỗi luống phải tưới ngày 2 lần sáng và chiều. Khi rau c̣n nhỏ, tưới
2 gánh nước một lần cho mỗi luống. Bắt đầu từ tuần lễ thứ 3 trở đi,
rau tăng trưởng mạnh phải tưới nhiều gấp đôi. Do đó, việc gánh nước
tưới rau được coi là vất vả nhất hàng ngày.
Mỗi đợt rau chỉ tưới một lần phân, do Khâu Phân đi gánh từ hồ chứa
bên Đội Nuôi Heo kế cận, về tưới cho từng luống. Khâu Phân gồm anh
Dương hiếu Nghĩa và 2 bạn khác phụ trách. Ngày nào đến lượt rau được
tưới phân, người phụ trách luống phải vất vả hơn b́nh thường. Phân
vừa tưới xong, phải lập tức gánh nước tưới rửa liền. Nếu không, lá
và cây rau bị phân bám làm cháy hư luôn. Lượng nước tưới cũng phải
nhiều gấp rưỡi b́nh thường.
Ngày “thâu hoạch”, cả Đội tập chung “hợp đồng” nhổ hoặc cắt rau, cột
thành bó 5 kí lô. Rồi tùy theo khổ người và sức khoẻ tương đương,
anh em tự động “bắt bồ” thành từng cặp khiêng rau về Nhà Bếp cân nộp.
Trung b́nh 2 người bao giờ cũng phải khiêng, một lượng rau từ 100
đến 120 kí lô một chuyến. Mỗi ngày chỉ “thâu hoạch” từ 5 đến 7 luống,
theo thứ tự reo hạt trước sau. “Thâu hoạch” liên tục hàng ngày cho
tới hết cả khu, rồi bắt đầu phá đất làm luống lại, reo trồng đợt
khác.
Anh Trung tá Sáu Đội phó và Tôi, cao xấp xỉ ngang nhau nên xáp thành
một cặp. Anh ấy mạnh hơn Tôi, nên trong lúc khiêng, bao giờ cũng cho
Tôi đi phía trước. Kiện rau khiêng, lúc nào cũng để gần phía đầu đ̣n
của anh ấy, cho sức nặng đè trên vai Tôi giảm bớt. Đối với Tôi, h́nh
như anh Sáu có một cảm t́nh đặc biệt nào đó, nên trong công tác tưới
các luống rau hàng ngày, anh ấy thường xuyên tự động phụ giúp Tôi,
nhất là trong giai đoạn rau phát triển mạnh cần nhiều nước. Có lẽ v́
anh ấy thấy Tôi yếu, mà vẫn im lặng cáng đáng công việc bằng như mọi
người, không bao giờ mở miệng than van nhờ vả ǵ ai. Thật là một
người vô cùng tốt bụng, suốt đời Tôi không bao giờ quên.
Ngày tháng cứ tuần tự trôi đi. Đội chúng tôi nay là Đội Rau chuyên
nghiệp, không c̣n cái cảnh tăng phái nơi này nơi khác nữa. Được ổn
định tại chỗ, anh em chẳng ai bảo ai, mỗi người tự động dọn một mẩu
đất nhỏ, bên bến lên xuống sông trồng ít rau thơm, rau răm, mồng tơi,
đậu ván, ớt, bạc hà... để “cải thiện” riêng.
Một hôm đi lao động chiều về, tự nhiên Tôi thấy người ớn lạnh, đau
sau hông. Tôi vào nhà vệ sinh đi tiểu ra máu, và cảm thấy hơi choáng
váng. Người hâm hấp nóng, từ trong bụng một cơn rét run bộc phát
ngày một mạnh hơn không sao kềm nổi. Phải lên xạp ngủ nằm đắp mấy
tầng chăn, vẫn lạnh run bắn người lên. Sau cơn lạnh là cơn nóng hừng
hực, đầu nhức như búa bổ.
Tôi có bệnh sạn thận từ năm 1965, nghi có hột sạn trong thận chui
vào ống dẫn nước tiểu, làm đau đớn hành như vậy. Cần phải lên Bệnh
xá để được chẩn bệnh, đưa đi nhà thương cấp cứu nếu cần. Tôi báo cáo
anh Đội trưởng nhờ gọi anh Thi Đua của Khu, mở cổng cho Tôi lên Bệnh
xá xin cấp cứu. Anh Sáu Đội phó d́u Tôi đi lên Bệnh xá, và đứng đợi
để biết rơ kết quả, trước khi trở về khu giam.
Nằm trên bàn khám bệnh chờ Cán bộ Y tế vào, thân nhiệt của Tôi mỗi
phút mỗi tăng lên tới hơn 40 độ bách phân. Người nóng hừng hực, mắt
môi đỏ au, cổ khô như rang, mệt mỏi bải hoải nhưng vẫn tỉnh. Mắt mở
bị ánh sáng làm nhức buốt vào óc, chịu không nổi phải nhắm nghiền
lại. Tai ù ù, loáng thoáng nghe mấy anh bạn Tù làm Y tá phụ cho Cán
bộ Y tế của Trại, yêu cầu anh Sáu về Láng lấy chăn mùng đem lên cho
Tôi nằm lại Bệnh xá theo dơi chữa trị. Nghe được tới đó, Tôi cảm
thấy người lơ mơ và lịm đi không c̣n biết ǵ nữa.
Đến khuya, nghe có tiếng cạo xoạt xoạt phía dưới gầm giường. Tôi
giật ḿnh tỉnh giấc mở mắt nh́n quanh, thấy ḿnh đang nằm trên chiếc
giường gỗ nhỏ, kê bên cạnh tường nơi góc một căn pḥng vắng hoe
không có ai, ngoài ngọn đèn dầu vàng vọt leo lét cháy, treo nơi
khung cửa cạnh đầu giường. Tôi cảm thấy nực nội khó chịu, người đẵm
mồ hôi, khát nước khô cổ khô miệng, hơi thở ra nóng hừng hực. Bỏ
chăn ra th́ rét buốt v́ khí lạnh của mái tôn toả xuống. Chống tay
muốn ngồi lên đi t́m người xin nước uống. Nhưng đầu lảo đảo, cơ bắp
chân tay thân ḿnh bải hoải nhức mỏi, như vừa bị đánh một trận đ̣n
nhừ tử, ngồi lên không được. Nằm vật nghiêng ḿnh xuống giường, quay
mặt vào tường buồn chán nản, tự nhiên thấy nghẹn ngào nơi cổ họng,
nấc nấc bật thành tiếng khóc. Nước mắt trào ra dàn dụa không cầm lại
được, y như đứa con nít bị đ̣n oan, nức nở khóc v́ không nói ra được
những điều uẩn ức trong ḷng. Đưa tay quờ mép chăn lau nước mắt,
đụng nhằm vật ǵ cứng lạnh, mở mắt nh́n mới biết là Gô nước của Tôi,
và Cà mèn đựng cháo. Chắc là anh Nguyễn văn Sáu Đội phó đem lên cho
Tôi hồi chiều tối, theo lời yêu cầu của mấy anh bạn Tù làm Y tá, khi
được biết Cán bộ cho Tôi nằm lại Bệnh xá để theo dơi cấp cứu.
Như vậy là Tôi bị sốt rét Hàm Tân vật, chớ không phải căn bệnh sạn
thận hành như Tôi tưởng. Tôi cố gắng ngồi dậy, uống nước và ăn cháo
cho tỉnh người. Hồi tối đi lao động về, Tôi đă kịp ăn uống ǵ đâu.
Miệng lạt đắng, hàm răng ê mỏi không muốn nhai, nhưng vẫn phải cố
gắng ăn cho hết Ga men cháo. Lỡ có chết cũng được chết no, không
phải làm ma đói, như các Cụ thường khuyên mỗi khi đến thăm các người
bệnh nặng.
Hồi mới về đây, anh em cũ khuyên là cần uống thuốc ngừa sốt rét.
Trong thời gian qua, tại Trại này đă có một số bạn Tù bị vong mạng
v́ bệnh sốt rét Rừng Lá. Tôi đă xin gia đ́nh đi chuốc mua gửi cho 6
viên Chloroquine, uống ngừa cả tháng trước rồi chớ không đâu. Thế mà
vẫn bị trùng sốt rét Hàm Tân vật như thường.
Ăn uống xong, người vẫn hâm hấp nóng, Tôi cố gắng ngủ lại nhưng
không được. Hễ nhắm mắt là y như thấy chập chờn hiện ra, vầng ánh
sáng vân vân lẫn lộn đủ mầu sắc cùng những h́nh mặt người đủ loại.
Lúc th́ h́nh Quan Vân Trường, Trương Phi trong chuyện Tam quốc Chí.
Lúc th́ h́nh Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, h́nh Napoleon, h́nh Chúa Cứu
Thế Jesus. Lúc th́ h́nh những khuôn mặt Tôi chưa hề quen biết bao
giờ... Có điều lạ, h́nh Cha Mẹ đă qua đời, h́nh Vợ Con, Họ hàng thân
thích th́ không thấy hiện ra.
Trong khi không ngủ được như vậy, Tôi bỗng dưng nhớ ra một sự kiện
đă xẩy ra vào năm 1969. Hồi đó đang giữ trách vụ Chánh Sự vụ Sở Khai
thác Nha Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Tôi được Đại
Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH, chỉ định làm Trưởng
một đoàn Thanh tra Hỗn hợp Việt Mỹ, tới Quân Y Viện của Bộ Tư lệnh
Sư đoàn Thủy quân Lục chiến ở Thị Nghè Saigon, và Bộ Chỉ huy Liên
đoàn Thủy quân Lục chiến đóng tại Thủ Đức, điều tra về vụ tại sao
một số rất lớn Quân Sĩ trong Liên đoàn bị sốt rét vật trong khi đang
hành quân tại vùng Rừng Lá Hàm Tân. Mặc dù Tiếp vận đă cung cấp
thuốc pḥng ngừa sốt rét, cho Quân Sĩ xử dụng hàng ngày đầy đủ. Cuộc
điều tra được thực hiện theo lời yêu cầu của Phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ,
v́ họ nghi là quân sĩ không chịu uống thuốc pḥng ngừa nên mới bị
sốt rét tấn công, gây trở ngại cho kế hoạch hành quân đă dự trù.
Sau khi điều tra, thấy rằng mọi người có uống thuốc pḥng ngừa như
quy định, nhưng vẫn bị sốt. Kết quả thử nghiệm phối hợp của Quân Y
Việt Mỹ, phát giác ra một loại vi trùng lạ Phansiparum, thuốc
Chloroquine không công hiệu, nên mới xẩy ra cớ sự. Nhờ vậy huề cả
làng, các cấp Chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam b́nh chân như vại,
không ai bị khiển trách. Nhưng Cố vấn Huê Kỳ hơi ngượng, v́ báo cáo
không đúng sự thật.
Kẻng báo thức sáng của Trại giam, chấm dứt đêm dài cơ cực mà trùng
sốt rét Hàm Tân hành hạ Tôi. Cả Bệnh xá chỉ có ḿnh Tôi nằm điều trị.
Sau khi Cán bộ Y tế vào chẩn bệnh, cho thuốc khoảng vài chục bạn Tù
khai bệnh buổi sáng xong, mới khám đến Tôi. Không ai trong số người
đến xin khám bệnh được coi là đủø nặng, để được vào nằm Bệnh xá điều
trị. Tôi được ở lại điều trị thêm vài ngày nữa.
Đến khoảng 11 giờ, tự nhiên thấy anh Nguyễn văn Sáu Đội phó vào Bệnh
xá thăm Tôi. Hôm nay là ngày Đội “thâu hoạch” rau nộp cho Nhà Bếp,
nên được về sớm mới có dịp ghé thăm. Theo lệ thường, hôm nào “thâu
hoạch” rau, vào khoảng 9 rưỡi 10 giờ mọi việc nhổ, bó, rửa rau phải
hoàn tất. Đội phó và số anh em đến lượt quy định theo thứ tự, khiêng
rau về cân nộp cho Nhà Bếp. Cân nộp rau xong, anh em được về Láng
giam nghỉ ngơi thong thả. Những người khác tiếp tục ở lại “hiện
trường”, làm việc cho đến hết giờ lao động sáng mới được về. Nhờ thế,
anh Sáu ghé thăm Tôi để biết t́nh h́nh sức khoẻ ra sao. Thấy Tôi
được ở lại Bệnh xá điều trị thêm vài ngày, anh ấy rất vui mừng, và
hẹn mỗi buổi chiều sau giờ lao động về, sẽ xin Thi Đua tŕnh Cán bộ
cho phép đem đồ ăn “bồi dưỡng” thêm cho mau lại sức.
Ba ngày sau, Tôi được Cán bộ Y tế cho rời Bệnh xá trở về Đội. Nhưng
hằng đêm vẫn lên cơn sốt, sáng đi khám bệnh thân nhiệt vẫn c̣n cao,
nên được nghỉ tại Láng, chưa phải đi lao động. Hàng ngày đi khám
bệnh lănh thuốc, điều trị “ngoại trú” như vậy được 1 tuần lễ, hết
sốt thân nhiệt trở lại b́nh thường, hôm sau phải theo Đội đi lao
động.
Sau 10 ngày nghỉ bệnh, tiếp tục theo Đội đi lao động, cảm thấy sức
khoẻ suy nhược nhiều, trong buổi sinh hoạt Đội vào buổi tối, Tôi mở
lời xin giảm “chỉ tiêu lao động” của ḿnh. Tôi cũng biết, anh Đội
trưởng sẽ bị đặt vào hoàn cảnh khó xửù, nhưng vẫn phải nói, để pḥng
ngừa trường hợp các luống rau của Tôi bị “năng xuất thấp”, không bị
“phê b́nh xây dựng”. Nhất là Quản giáo Đội không thể viện cớ đó, t́m
biện pháp kỷ luật trả thù Tôi. Sở dĩ Tôi phải làm như vậy, v́ biết
rằng trong khi Đội sinh hoạt tối trong pḥng giam, bao giờ Quản giáo
Đội cũng đứng bên ngoài nghe và theo dơi.
Anh em ai cũng “nhất trí”ù yêu cầu của Tôi là chính đáng, nhưng
không ai đưa đề nghị nào để giải quyết. Anh Đội trưởng vướng vào thế
kẹt, nếu quyết định rút bớt số luống rau Tôi đang phụ trách, biết
trao lại cho ai. Không khí im lặng nặng nề đè trên buổi sinh hoạt.
Quản giáo đứng ngoài cũng không lên tiếng. Anh Sáu Đội phó khẳng
khái phát biểu ư kiến, “tự nguyện” phụ giúp Tôi tưới các luống rau
hàng ngày. Nhờ thế, đến kỳ “thâu hoạch” các luống rau của Tôi vẫn có
“năng xuất cao”, không thua ǵ các bạn khác. Quản giáo Đội không
kiếm được lư do nào, để có thái độ khắt khe trả thù Tôi.
Một tuần lễ sau khi đi lao động trở lại, Tôi được gia đ́nh tới “thăm
nuôi”. Vợ của Tôi báo cho biết, người con gái lớn đă vượt biên trót
lọt, hiện đang ở bên Phi Luật Tân chờ hoàn tất thủ tục sang Hoa Kỳ
định cư, với sự bảo trợ của người con trai lớn đă ở Hoa Kỳ từ năm
1971. Tôi mừng xúc động, nước mắt trào ra không kềm nổi. Người con
rể vượt biên không thoát, bị bắt giam 2 năm tại Trại Z30A mới được
tha, đi theo thăm, đưa khăn tay cho Tôi chùi nước mắt, và nhắc nên
cố rằn cơn xúc động giữ b́nh tĩnh, v́ “các anh ba” này không thích
như vậy, họ thấy được sẽ có điều không hay.
Lần tiếp tế này của Tôi, được coi là khá giả nhất từ xưa tới nay.
“Thăm nuôi” vào, nhớ tới ḷng tốt của anh Nguyễn văn Sáu Đội phó,
Tôi mời anh ấy dùng cơm với Tôi, và đề nghị từ nay cho đến khi nào
c̣n được ở chung một Đội, 2 anh em sẽ ăn chung với nhau hàng ngày.
Anh ấy đồng ư ngay không suy nghĩ do dự ǵ cả. Hoàn cảnh tiếp tế của
2 gia đ́nh chúng tôi, không chênh lệch nhau bao nhiêu, nên không e
ngại có thể xẩy ra chuyện phân b́ so sánh thiệt hơn, làm phiền ḷng
nhau sau này. Cũng kể từ đó, chúng tôi thu xếp để gia đ́nh thay
phiên nhau đi thăm, hễ gia đ́nh anh Sáu đi thăm nuôi th́ gia đ́nh
Tôi nhờ đem quà giùm, và ngược lại. Nhờ thế, 6 tháng gia đ́nh mới
phải đi thăm một lần, để có th́ giờ ở nhà lo tần tảo kiếm ăn.
Chúng tôi trở thành bạn tri kỷ, bắt đầu từ đấy cho đến khi được tha
ra khỏi Trại Z30D, vào tháng 2 năm 1988. Cũng nhờ vậy, Tôi đă giúp
anh Sáu Đội phó cải tiến cách cư xử, để không làm mất cảm t́nh của
anh em trong Đội. Anh ấy là người rất tốt bụng, thẳng thắn bộc trực,
thường “nói toạc móng heo” ư nghĩ của ḿnh, không khéo lựa lời tế
nhị rào trước đón sau, khiến cho vài ba anh khó tính có thành kiến
không vui ḷng cho lắm.
Những năm đầu mới tới định cư tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ, biết được
gia đ́nh anh Sáu cũng định cư tại vùng San Diego, Tôi có đưa gia
đ́nh tới thăm gia đ́nh anh ấy. Gặp nhau mừng rỡ, ôn lại những kỷ
niệm vui buồn chia sẻ ngọt bùi, trong các Trại Z30C và Z30D suốt 6
năm trời ṛng ră bên nhau.
T̀NH CHIẾN HỮU TRONG CẢI TẠO.
Sa cơ lao khổ bên nhau,
Nắng mưa chia sẻ nhịp cầu đắng cay.
Một mai thoát đại hạn này,
Gặp nhau nâng chén mừng ngày Tự do.
Đấu tranh dựng lại cơ đồ,
Cho Dân tộc Việt ấm no thịnh cường.
Công bằng trải khắp quê hương,
Nhân quyền, Dân chủ, T́nh thương hài hoà.
Trẻ già mọi giới hoan ca,
Chung lưng bảo vệ Sơn Hà Việt Nam.
Đập tan Cộng đảng gian tham,
Trừ loài vong bản từng làm hại Dân.
Diệt phường ác qủy vô thần,
Phục hưng Luân lư, Đạo Nhân Lạc Hồng.
Mùa Hè 1983, K1 Trại Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải.
HOME
(C̣n tiếp..) |