Chương 27
KẾT QUẢ CÁCH MẠNG XĂ HỘI, CỦA BÁC HỒ VÀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Hồi
Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)
Nguyễn Huy Hùng
Mùa mưa lũ năm 1980 tại Thanh Phong, đă làm gián đoạn lưu thông giữa
Trại và bên ngoài nhiều lần. Mỗi lần lâu từ một tuần lễ đến 10 ngày.
Ban Hậu Cần không nhận được tiếp tế đều hoà đúng kỳ hạn, nên trong
những dịp này cả Trại cùng chịu thiếu đói như nhau. Cán bộ K2 phải
ăn ngày 2 bữa cháo độn khoai tây. Anh em Tù chỉ được phát thực phẩm
mỗi ngày một lần, vào buổi sáng trước khi đi lao động. Mỗi phần ăn
dành cho cả ngày, được khoảng chục củ khoai tây luộc, to bằng trái
trứng gà.
Đa số anh em Tù nhờ có Bưu kiện tiếp tế, của gia đ́nh gửi hàng tháng
để tích trữ, nên vẫn đầy đủ ngày 3 bữa no nê. Chỉ tội cho các bạn
không có tiếp tế, thiếu đói nặng phải cải thiện linh tinh, nhưng
không thấy Cán bộ làm khó dễ. Quản giáo Đội cũng thông cảm, trong
mỗi buổi lao động thường cho 2 người lén lội qua sông, đào trộm sắn
non của Trại, đem về nấu cho Quản giáo và Cảnh vệ ăn no tại chỗ. Anh
em Tù trong Đội cũng được chia phần “bồi dưỡng” chút đỉnh, nên vui
vẻ cả làng, không ai báo cáo ai. Những người có dư giả, nhường phần
“bồi dưỡng” của ḿnh cho các bạn thiếu thốn, để bầy tỏ t́nh tương
thân tương ái “miếng khi đói bằng gói khi no”.
Sau nhiều cơn hoạn nạn, Cán bộ và Tù đă có dịp cùng nhau chia sẻ
ngọt bùi thiếu đói, nên t́nh cảm cư xử với nhau đổi khác hẳn. Cũng
nhờ thế, không khí chuẩn bị mừng đón Tết Tân Dậu-1981, có vẻ rôm rả
đầm ấm hơn năm trước. Cán bộ mạnh rạn xin Tù cho quần áo Trại phát
không dùng, đem đi đổi lấy thịt chó về vui nhậu trong 3 ngày Tết.
Ngược lại, Tù cũng nhờ Cán bộ đem quần áo đi đổi giùm, lấy gạo nếp,
đậu xanh và trứng gà, để tăng cường các món ăn đầu năm của ḿnh thêm
phần phong phú. Việc này thực hiện được, nhờ quần áo Nhà Nước phát
cho Tù 6 tháng một bộ, không may pha lộn 2 mầu xanh trắng như hồi
c̣n ở Trại Tân Lập, không đóng dấu ám hiệu Trại giam trước khi phát,
vải nhuộm toàn một mầu xanh chàm, đồng bào Thái ở gần Trại có thể
dùng được không trở ngại ǵ.
Trong 2 Đội Rau Xanh, có 1 Đội gồm toàn các Tuyên úy Quân đội, Đại
tá, và anh em gốc Chiến tranh Chính trị, được đặt tên là Đội Rau
Xanh kiêm Văn Nghệ. Đội này, ngoài việc trồng rau, phải dàn dựng tập
dượt các chương tŕnh Văn Nghệ. Buổi thử lửa tŕnh diễn đầu tiên,
vào dịp mừng Lễ Độc Lập 2 tháng 9, thành công rất mỹ măn. Nên vào
ngày mồng 3 Tết Tân Dậu-1981, Phân trại K2 tổ chức “xuất quân Thi
Đua đầu năm” với một chương tŕnh Văn Nghệ lưu động, thúc đẩy tinh
thần anh em lao động rất hào hứng. Có múa Lân, có toán Nhạc nhẹ và
Ca sĩ lần lượt đến từng khu vực lao động, tŕnh diễn giúp vui cho
anh em hăng hái, xông pha phát bụi rậm, cỏ tranh, cỏ bông lau, c̣ng
lưng cuốc đào đất bỏ hom trồng khoai ḿ, trên sườn núi hai bên quăng
đường dài 4 cây số, bên kia sông hướng đi tới Xóm Hoán Bù.
Có những bài hát của miền Nam, sau 30-4-1975 bị cấm v́ Cộng sản Việt
Nam coi là Nhạc Vàng phản động, nhưng thấy Ban Văn Nghệ hoà tấu
không lời ca, cho anh em thưởng thức. Anh em thích thú hoan hô nhiệt
liệt và rất ngạc nhiên, không biết v́ sao Ban Văn Nghệ giám liều
lĩnh đến thế. Trong giờ nghỉ lao động ở trong trại, Tôi t́m gặp Linh
Mục Tuyên úy, Đội trưởng Rau Xanh kiêm Văn Nghệ để hỏi. Ngài cho
biết : “-Mọi tiết mục trong chương tŕnh đều phải tŕnh Cán Bộ Quản
Giáo duyệt trước. Ḿnh nói là nhạc Liên Xô và nhạc Cu Ba, họ hân
hoan gật đầu ngay. Họ đâu có biết khỉ khô Ất Giáp ǵ nhiều về ca
nhạc, ngoài mấy bài hát do Đảng và Nhà Nước nhồi vào sọ hàng ngày.
C̣n anh em chúng ḿnh, chắc chắn không ai đi tố cáo, nên chẳng có ǵ
để mà sợ.”
Để tới “hiện trường lao động thi đua đầu năm” Con Gà Mới (Tân Dậu),
mọi người phải đi theo con đường từ khu trại giam qua Đội Gạch bên
đồi miá, xuống chân đồi băng qua sông chỗ khúc cạn ngập ngang đầu
gối. Ḍng nước lúc nào cũng chẩy rất xiết, ḷng sông đầy sỏi đá rêu
bao trơn trợt. Anh em phải nắm tay nhau, kẻ trước người sau ḍ đi
từng bước một. Tội nghiệp cho các Bạn đến phiên trực, phải vác các
bó cuốc ra hiện trường cho Anh Em dùng, thật vất vả. Nếu lỡ trợt
chân, bị nước cuốn băng đi cả chục mét. Khi gượng đứng lên được, bị
ướt sũng từ đầu đến chân, chẳng khác nào tắm gội không cởi bỏ quần
áo.
Mỗi Đội được giao khoán phát quang, đào hố, bỏ hom trồng khoai ḿ (sắn),
trên một khoảng đất bề dài 1 cây số, sâu vào 2 bên lề chừng 200 mét,
dọc theo con đường đi Xóm Hoán Bù. Đội nào làm xong trước nhất, được
thưởng mỗi người 1 kí lô sắn “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên Đội các bạn trẻ
bao giờ cũng dành phần thắng lợi. Đội chúng tôi già yếu, chỉ cố gắng
làm cho không bị chỉ trích chây lười là tốt rồi.
Nhưng cũng may, trong kỳ “thi đua” này Trại đặt ra một biệt lệ, phát
“giải thưởng bồi dưỡng” 5 cây miá cho cá nhân nào được Đội trưởng
ghi nhận là “lao động năng nổ vượt chỉ tiêu” trong ngày. Đội trưởng,
Đội phó và Thư kư Đội chúng tôi bàn luận với nhau, rồi cho anh em
biết là, mỗi ngày sẽ tŕnh danh sách 5 người “lao động xuất sắc”, để
thay phiên nhau lănh thưởng về chia đều cho cả Đội. Anh em phải kín
đáo, âm thầm tiếp tay cho các “anh hùng lao động” này hoàn thành
“vượt chỉ tiêu”, tối thiểu từ 5 đến 7 hố sắn nhiều hơn những người
khác. Anh em vui vẻ “nhất trí”, nhờ vậy ngày nào toàn thể Đội chúng
tôi cũng có miá “bồi dưỡng”.
Một hôm, khi đang phát bụi rậm trong buổi lao động sáng, Tổ chúng
tôi gặp phải một tổ ong vàng. Chúng bay toả ra đốt túi bụi, anh em
bỏ chạy tán loạn la ôi ối. Cán bộ Quản giáo thấy vậy, chạy đến vơ
nắm cỏ tranh bện làm một nùi đuốc, đốt lên đem đến chỗ bụi rậm hun,
xua ong bay tản đi chỗ khác, rồi vạch t́m lấy tổ ong đưa cho chúng
tôi.
Chúng tôi xé tổ ong, chia nhau mỗi người một mảnh, lấy một ít xáp và
ong nhộng chà lên những chỗ bị ong chích để giải độc. Chỗ c̣n lại,
gồm cả ong nhộng và mật, bỏ vào miệng ăn tươi rất bùi béo ngọt. Từ
đó về sau, mỗi khi đi phá bụi rậm, anh em lại mong được gặp tổ ong
càng lớn càng tốt, để có nhiều mật tươi ăn cho nó bổ. Cũng may,
chúng tôi gặp phải tổ ong cỏ hay ong đất ǵ đó, mầu vàng như nghệ,
thân ngực to bằng hột đậu xanh, khúc bụng to dài hơn hột đậu đen một
chút, thế mà chúng đốt đă nhức nhối đau rát, y như bị phỏng lửa chịu
không nổi. Nếu gặp nhằm tổ ong Ṿ Vẽ (ḿnh vằn đen vàng), nọc độc
của nó làm cho bị nóng sốt mê man, xưng phù, nếu không có thuốc giải
cứu kịp thời có thể vong mạng. Thật là hú viá!
Trong rừng núi Trường Sơn, thời gian giao mùa hết Đông sang Xuân,
sáng sớm đi làm, sương đêm đọng đầy trên cỏ, đụng vào lạnh cóng.
Trưa nắng chói chang, lao động mau mệt, vă mồ hôi, khô cổ họng. Xế
chiều, vừa tới giờ nghỉ lao động, mặt trời đă vội vă lỉnh xuống phiá
sau các đỉnh núi cao rừng rậm, khí lạnh toả ra rất nhanh. Cả buổi
lam lũ, bụi đất bụi cỏ bám đầy từ đầu đến chân, người đẫm mồ hôi,
không tắm th́ dơ bẩn ngứa ngáy sinh ghẻ lợ. C̣n tắm, phải cởi quần
áo lội xuống nước lạnh rùng ḿnh, rất dễ bị nhuốm bệnh cảm. Sổ mũi
nhức đầu, mệt mỏi bải hoải, nhưng không sốt cao độ, chẳng bao giờ
được nghỉ lao động. Đằng nào cũng khổ, nhưng nhu cầu giữ vệ sinh là
ưu tiên số một nên phải liều, cơ thể phải tự thích ứng lần, và cuối
cùng trở thành quen dày dạn chẳng sao.
Một hôm, giữa buổi lao động chiều, chúng tôi đang ngồi bên lề đường
nghỉ giải lao, có 3 người đàn bà Kinh đứng tuổi, mặc váy đen, áo
cánh nâu, chít khăn đen mỏ quạ đă bạc mầu, đi ngang. Bỗng, một người
đang đi ngồi thụp xuống, ôm đầu nhăn nhó, mặt mày xanh lợt. Anh Đại
tá Trần văn Thăng (gốc An ninh Quân đội) tới gần hỏi : “-Bà làm sao
vậy?”. Bà ấy trả lời : “-Thưa, tự nhiên Em thấy choáng váng, chóng
mặt nhức đầu quá!”. Anh Thăng lấy hộp sáp dầu Cù Là hiệu Macshu của
Singapore (Dân chúng miền Nam ưa dùng), đưa cho Bà ấy bôi vào 2 bên
thái dương, trán và sau gáy để trị trúng gió. Sau khi bôi được chừng
vài phút, Bà ấy tỉnh hẳn ra, mặt mày hồng hào trở lại, cám ơn rối
rít rồi đứng lên đi tiếp cho kịp 2 Bà bạn kia.
Một lúc sau, một trong 3 người đàn bà quay trở lại, chià tay xin
chút thuốc trị trúng gió. Anh Thăng nói : “-Hồi năy đă cho Bà rồi!”
Bà ta lư nhí nói : “-Thưa, lúc năy Anh cho Chị kia chớ không phải Em.”
Anh Thăng lấy hộp sáp Cù là mở nắp, thấy c̣n rất ít dính đáy hộp,
bèn đưa luôn cho Bà ta và nói : “-Chỉ c̣n có chút đỉnh thôi, Bà cầm
lấy luôn để mà chia nhau xài.” Bà ta ngước mắt ngạc nhiên, lắc đầu
nói : “-Không dám, xin Anh một tư dùng thử cho biết mùi thôi.” Sợ
nói chuyện lâu với thường dân, Cán bộ lại buộc tội vi phạm Nội Quy
trại th́ phiền, Anh Thăng nói nhanh : “-Tôi cho Bà luôn đấy, thôi đi
đi kẻo Cán bộ rầy rà thêm phiền phức.” Mắt Bà ấy sáng rực lên, gật
đầu lia lịa, cám ơn rối rít, cầm hộp xáp Cù là chạy vội đi khỏi chỗ
chúng tôi.
Cảnh tượng này, khiến tất cả anh em chúng tôi vô cùng xót xa thương
cho số phận người dân, sống trong Thiên đường Xă hội Chủ nghiă bấy
lâu nay tại miền Bắc Việt Nam.
Đợt “Thi đua” trồng sắn đầu năm vừa dứt, Đội chúng tôi được chỉ định
khai quang, và đắp sửa con đường băng qua xóm Hoán Bù cho đủ rộng,
để xe vận tải có thể lưu thông được.
Xóm Hoán Bù gồm khoảng chục căn nhà vách đất mái rạ, nằm dọc theo
sát bên trái con đường. Trong thời gian lao động tại khu này, sáng
cũng như chiều, chúng tôi không thấy bóng một Nam Nữ trẻ tuổi nào,
ngoài vài ông bà già và ít đứa con nít dưới 5 tuổi. Chúng tôi không
quan tâm t́m hiểu tại sao lại đặt tên là xóm Hoán Bù, và hai chữ
Hoán Bù có ư nghĩa ǵ?
T́nh cờ trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, sương mù chưa
tan hết, không khí c̣n ẩm lạnh căm căm, bà cụ nhà ở sát bên đường
đon đả mời Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ, vào uống trà tươi và khoai
luộc c̣n nóng hổi cho ấm ḷng. Đúng lúc đó, một ông cụ từ bià rừng
về tới, xà xuống bên chúng tôi, xin điếu thuốc lào hút cho ấm dạ.
Chúng tôi phải mặc 2, 3 tầng áo len áo bông dài tay, c̣n cảm thấy
lạnh. Trong khi ông già chỉ phong phanh có 1 bộ quần áo “kiểu bà ba”
nâu, bằng vải mỏng đă bạc mầu, bên ngoài phủ chiếc “áo bông chấn thủ”
cụt tay, đă rách phải vá víu nhiều chỗ. Da mặt ông cụ xám ngoét, môi
tím bầm, co ro cúm rúm, xoa 2 tay vào nhau cho đỡ lạnh.
Một anh trong chúng tôi hỏi : “-Cụ năm nay đă đến 70 chưa, già nua
vậy mà vào rừng chi sớm vậy?” Ông cụ trả lời : “-Cám ơn Trời cho năm
nay mới được 60 thôi! Sống trong Xă hội Chủ nghiă, ai cũng phải lao
động mới được chấm công, để lănh phần “tiêu chuẩn” quy định hàng
ngày. Chúng tôi dẫn trâu của Hợp tác xă đi ăn cỏ. Lợi dụng trong lúc
chúng kiếm ăn, ḿnh ṃ về kiếm chút khoai sắn đỡ dạ vậy mà. Bà nhà
tôi ở nhà chăm sóc nhà trẻ cho xóm. Các cháu cỡ 6, 7 tuổi trở lên,
phải đi hót phân cắt cỏ cho trâu ăn. Mỗi người một việc Qúy ông ạ!”
Chúng tôi lại hỏi : “-Phiếu vải được Nhà Nước cấp hàng năm để may
quần áo đâu, sao Cụ không mua mà dùng?” Ông cụ trả lời : “-Ấy, hàng
năm Nhà Nước có cấp Phiếu cho đấy. Nhưng vài năm nay, mỗi lần đến
Hợp Tác Xă đều nói chưa có hàng về, nên ḿnh phải đợi thôi! Từ ngày
chấm dứt chiến tranh, không c̣n viện trợ của các nước anh em Xă hội
Chủ nghiă nữa, cái ǵ cũng thiếu.”
Trong lúc nói chuyện, có dịp quan sát kỹ khuôn mặt ông cụ, Tôi ngờ
ngợ thấy h́nh như ḿnh đă có dịp gặp ông cụ này ở đâu, nhưng không
nhớ ra được. Bèn hỏi : -Cụ và bà con Xóm này ở đây bao lâu rồi, mà
trông các mái rạ c̣n mới quá vậy? Ông cụ trả lời : “-Ấy cũng chưa
lâu lắm đâu. Trước chúng tôi ở vùng Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, đủ hạn
kỳ Nhà Nước lại điều động đến đây khai phá làm ăn sinh sống.” Tôi
hỏi tiếp : -Gia đ́nh cụ t́nh nguyện đi lập vùng Kinh tế mới ở đây à?
Ông cụ lắc đầu, đảo mắt liếc quanh không thấy bóng Cán bộ nào gần
chỗ chúng tôi đang tṛ chuyện, mới hạ thấp giọng nói tiếp : “-Trước
năm 1954, Cha của tôi làm Lư trưởng vùng Tề ở Thái B́nh. Sau tháng 7
năm 1954, toàn miền Bắc được giải phóng khỏi tay Tây và phe Quốc gia,
Cha tôi bị Toà án Nhân dân xử tử, v́ tội Việt gian bán nước. Cả đại
gia đ́nh họ Nội, họ Ngoại chúng tôi được Nhà Nước khoan hồng tha tội
chết, nhưng phải đi lao động tại các vùng Kinh tế mới. Cứ 4, 5 năm
lại rời nơi lao động, miết từ bấy đến nay chẳng biết bao giờ mới
được ở yên một chỗ. Khi c̣n ở Yên Bái, gia đ́nh chúng tôi ở Hợp tác
xă trong vùng Xă Việt Cường. Hồi đó, chúng tôi cũng đă có dịp gặp
bạn bè của Qúy ông đến đắp đập cho Hợp tác xă. Gia đ́nh chúng tôi
phải hàng ngày cung cấp sắn bồi dưỡng cho các ông ấy đấy!”
Thảo nào! Tôi nhớ ra rồi và bây giờ mới hiểu, tại sao ông cụ này hồi
đó cư xử rất tử tế với chúng tôi, trong khi nhiều người khác luôn
luôn có thái độ căm thù. Hồi c̣n ở Liên trại 1, Đội chúng tôi được
chỉ định đi đắp đập thuê ở quanh vùng xă Việt Cường, Yên Bái (Tôi đă
kể trong một đoạn trước). Hàng ngày, Tôi được Đội trưởng cử đi cùng
1 bạn khác, theo Quản giáo Đội vào Hợp Tác Xă để nhân viên đưa đi
đào sắn sống. “Tiêu chuẩn bồi dưỡng” Hợp Tác Xă cho mỗi người 1 kí
lô một ngày. Chúng tôi lănh đem ra trao cho anh Nấu nước của Đội,
rửa luộc chia đều cho anh em “bồi dưỡng” trong giờ giải lao, sau khi
đă lựa mươi củ to ngon để Quản Giáo Đội và Cảnh Vệ dùng trước. Chính
ông cụ này, đă được Chủ nhiệm Hợp Tác Xă giao cho việc đưa chúng tôi
ra ruộng sắn tự đào củ, và cân cho chúng tôi. Bao giờ ông cụ cũng
cho chúng tôi lấy nhiều hơn số cân lượng quy định.
Công việc sửa sang đường, băng qua xóm Hoán Bù vừa được chừng 1 cây
số, Đội chúng tôi được điều động đi rẫy cỏ phá bụi trồng lúa nương,
ngay bên kia bờ sông đối diện với khu trại giam. Đoạn đường c̣n lại
chưa sửa, không biết do Đội nào tiếp tục phụ trách.
Đường đi đến khu lao động mới rất gần. Chúng tôi chỉ phải lội qua
sông nơi khúc cạn, nước cao ngang đầu gối, ngay khu bến tắm hàng
ngày của Anh Em Tù, sát hàng rào Nhà Bếp của Trại giam ngó xuống.
Làm việc tại khu này, cá nhân Tôi học được một kinh nghiệm hú viá để
đời. Một buổi sáng ra lao động, thấy trên khúc gỗ mục mọc đầy nấm,
mầu nâu non đẹp y như nấm Đông Cô. Đúng loại nấm anh bạn thuộc Đội
khác ở chung Láng, chiều nào cũng nấu cả Gô đầy. Bạn ấy ăn ngon lành
và khen rất ṛn ngọt, chẳng thua ǵ nấm Đông Cô trong các Nhà hàng
ăn của Tầu. Tôi liền hái một lố cỡ đầy 2 Gô, rửa sạch sẽ đem về trại
giam. Chuẩn bị bữa ăn trưa, Tôi lấy một nửa số nấm hái được, nấu
chung với bánh ḿ luộc trại phát, cắt miếng vuông nhỏ bằng đốt ngón,
và ḿ vụn gia đ́nh gửi tới để ăn thử. Quả không sai, nước súp rất
ngọt y như có bỏ bột nêm, miếng nấm ăn rất ṛn ngon lạ thường.
Anh bạn nằm kế bên, Đại tá Nguyễn Quốc Di (Trưởng Khối Tài Chánh của
Tổng cục Chiến Tranh Chính trị) thuộc số anh em nghèo quà của gia
đ́nh, thấy Tôi tấm tắc khen ngon, ngỏ ư muốn nếm thử. Tôi múc ra
tặng một Ca, bạn ấy chỉ lấy phân nửa, ư chừng sợ gặp nấm độc không
dám ăn nhiều. Thấy mấy Bạn khác nằm gần đưa mắt nh́n chúng tôi ăn,
Tôi mời nếm thử, nhưng họ lắc đầu không ai dám liều.
Ăn vừa xong bữa, Tôi cảm thấy đầu bừng bừng lâng lâng. Giật ḿnh
nghi là bị say nấm, Tôi bèn báo cho Đội trưởng và các Bạn nằm kế bên
biết, để lỡ bất tỉnh th́ các Bạn đem đi Bệnh xá cấp cứu. Sau đó, Tôi
chạy vào nhà vệ sinh trong Láng móc cổ họng cho mửa ra, nhưng chỉ
nôn ra được có chút đỉnh thôi. Người bắt đầu cảm thấy lảo đảo như
say rượu, phải vội vă lấy đường và bột đậu xanh ra hoà đầy một ca
uống giải độc. Hai mắt mỏi xụp xuống buồn ngủ vô cùng. Tôi cố hoạt
động để cưỡng lại, sợ ngủ có thể ngất lịm đi luôn, không ai biết th́
nguy. Cứ nằm xuống ngồi lên, Tôi múc từng muổng đường cát cho vào
miệng ngậm. Cho đến giờ kẻng tập họp đi lao động buổi chiều trổi lên,
cảm thấy dễ chịu hơn, Tôi sửa soạn đi lao động như thường. Dĩ nhiên
phải mang theo Gô đường cát đầy nhóc, để tiếp tục ngậm liên tục từng
muổng một, cho mau giải say. Anh bạn Di ăn ít nên chẳng sao.
Trên đường đi đến hiện trường lao động, lúc lội ngang sông, Tôi trầm
ḿnh xuống nước cho ướt sũng cả quần áo và đầu. Hy vọng cái lạnh làm
thay đổi thân nhiệt đột ngột, sẽ giúp cho cơ thể trở lại b́nh thường
nhanh hơn. Nhưng cái nạn buồn ngủ vẫn đè nặng trên đầu. Tôi phải cố
gắng lao động liên tục, hăng hái hơn b́nh thường, cho mồ hôi vă ra
thật nhiều để thải độc. Lạ một điều, lao động hăng hơn b́nh thường,
mà không cảm thấy mệt. Vừa lao động vừa suy nghĩ “thật chẳng cái dại
nào giống cái dại nào” như các Cụ thường ví von, nên Tôi cứ tủm tỉm
cười một ḿnh hoài. Anh Bạn Di bông đùa, đặt cho loại nấm mà chúng
tôi ăn, một cái tên thật kỳ lạ : “khích tiếu nấm”, tức là loại nấm
kích thích cho ḿnh phải cười hoài.
Chiều về, Tôi mang chỗ nấm c̣n lại chưa dùng bỏ thùng rác. Anh Bạn
khác Đội ở chung láng, chạy lại xin để ăn. Tôi nói không nên, nấm
này ăn làm say nguy hiểm. Lúc đó anh Bạn mới tiết lộ cái bí quyết
sửa soạn loại nấm đó ăn không bị say, và đêm ngủ ngon thẳng giấc y
như uống thuốc ngủ. Đó là, phải luộc thật kỹ, đổ bỏ nước, chỉ ăn xác
nấm đă luộc chín như ăn rau, và chỉ ăn vào buổi tối. Thảo nào, thấy
anh Bạn ấy ăn hàng ngày không sao, ḿnh vừa mới thử đă bị say làm sợ
hết hồn hết vía.
Mặc dù được anh Bạn chỉ cho bí quyết rơ ràng, nhưng từ đó trở đi Tôi
không bao giờ dại dột thử lần thứ hai, kể cả nấm mối hay nấm trứng
vẫn thường ăn xưa nay, ngoại trừ nấm mèo (mộc nhĩ). Vùng này có
nhiều mộc nhĩ to bằng bàn tay và dầy, chúng tôi thường lấy về xắt
nhỏ, nấu với đậu xanh làm chè ăn rất ngon.
Một hôm, bỗng dưng toàn K2 được nghỉ lao động buổi sáng, tập trung
lên Hội trường nghe “Ban” Thùy (Giám thị Trưởng Trại Thanh Phong) từ
K1 vào nói chuyện. Ông ta ṿng vo Tam quốc về t́nh người, về ḷng
nhân đạo..., để đi đến kết luận : “-Trại sẽ đem khoảng một trăm Tù
H́nh Sự trong K3 (vùng tử địa), đang bệnh hoạn không đủ khả năng lao
động, về ở chung tại K2. Để cứu sống nhóm “đầu lâu chân tay” này,
Trại sẽ trích bớt phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày của anh em, tăng
cường “bồi dưỡng” cho bọn chúngï trong ṿng 2 tháng. Theo tinh thần
Dân Chủ, Trại yêu cầu anh em cho biết ư kiến, để kịp thời quyết định.”
Thật là “nhân nghĩa Bà Chuá Đễ”, ai cũng biết là không đồng ư cũng
chẳng được, lại mang tiếng Vô Nhân Đạo, nên mọi người vui vẻ vỗ tay
“nhất trí”. Thế là Ban Giám Thị đă đạt được “mục đích yêu cầu” một
cách dễ dàng vẻ vang, mà không mang tiếng độc tài đảng trị.
Kể từ hôm sau, mấy Đội nông nghiệp (dĩ nhiên có cả Đội chúng tôi)
được tập trung thực hiện một hàng rào tre cao 2 mét, để nguyên cây
ken sát bên nhau, chôn sâu xuống đất 80 phân. Hàng rào nằm dọc theo
bên này con đường rộng 6 mét, phân cách Khu Cách Ly giam chúng tôi
và Khu sẽ giam H́nh sự. Sau 1 tuần lễ lao động “khẩn trương”, hàng
rào hoàn tất. Bọn “Đầu lâu chân tay” được xe tải chuyển từ K3 về K2,
nhốt trong 2 dẫy Láng ở góc sân thấp nhất của Trại giam. Nơi mà
chúng tôi bị đưa vào giam, từ đêm mới đến hồi đầu năm 1980, đến khi
“biên chế” lại và chuyển sang Khu Cách Ly hiện tại.
Bọn Tù H́nh Sự này c̣n rất trẻ, ốm tong teo chỉ thấy da bọc xương,
ghẻ lở cùng ḿnh, quần áo rách rưới bẩn thỉu hôi hám, đầy chí rận.
Chúng được ở trong trại “bồi dưỡng” khoảng 2 tuần lễ, tạm coi như đă
tỉnh táo trở lại, nên phải đi tham gia lao động. Một nhóm đi làm tại
Khu trồng rau xanh, một nhóm sang làm gạch, và làm mía. Chúng bị cấm
ngặt không được “quan hệ” với chúng tôi. Nhưng tại hiện trường lao
động, cũng như tại bến tắm sau giờ lao động, chúng luôn luôn t́m
cách mon men đến gần chúng tôi, để xin thức ăn, thuốc hút, đồ dùng
lặt vặt như khăn mặt, quần áo cũ... Ai tỏ ra hào hiệp sởi lởi, được
chúng nịnh Bố Bố Con Con ngọt sớt. C̣n ai lạnh lùng làm ngơ không
đáp ứng lời năn nỉ, chúng đổi giọng hỗn xược, chửi thẳng thừng “Đ..M..
Bố già keo kiệt”. Thật là mất dậy hết chỗ nói.
Đa số trong bọn Tù H́nh Sự này toàn là thành phần băng đảng, ăn cắp,
cướp của, hăm hiếp, giết người ngoài Xă hội, đă bị bắt tập trung
trong các Trại Cải Tạo Thiếu Nhi từ thuở c̣n thơ ấu. Đến khi chúng
hết tuổi vị thành niên, phải chuyển sang Trại Cải tạo của người lớn,
tiếp tục cải tạo cho đến hết án phạt.
Có đứa rất tội nghiệp, v́ hoàn cảnh gia đ́nh đông anh em túng thiếu,
cha mẹ bệnh hoạn, phải lập bọn tổ chức ăn cắp của Hợp Tác Xă nên bị
bắt Cải Tạo, lúc nào cũng mong cho mau hết hạn trở về với gia đ́nh.
Nhưng cũng có đứa thuộc loại “cải tạo chuyên nghiệp”, ra vào tù như
đi chợ. Ngoài xă hội, chữ nghiă ăn đong, nghề nghiệp chuyên môn
không có, lại thích sống phè phỡn như các cậu ấm cô chiêu con Đảng
viên Cán bộ Nhà Nước, nên phải chuyên hành nghề bất hảo, trấn lột
của người mà tiêu dùng cho đỡ cực nhọc. Cướp một lần sống thoải mái
rong chơi đàn đúm đĩ đượi cả tháng, rồi mới chuẩn bị làm mẻ khác.
Nếu chẳng may bị thộp, th́ vào cải tạo ít lâu đâu có sao! Mấy đứa
này, thường là các tay “anh chị đầu nậu” hiếp đáp tù khác trong trại,
để được cung phụng sống chẳng khác nào Cán bộ cai tù. Trường hợp
trại giam có 2, 3 đứa thuộc loại này cùng bị nhốt một lượt, th́
chúng lập phe cánh riêng, chém giết nhau để tranh giành ảnh hưởng,
làm Chúa tể trong Láng ngủ.
Từ ngày có bọn H́nh Sự về ở chung trong K2, anh em chúng tôi gặp cái
nạn bị mất đồ lặt vặt thường xuyên nơi bến tắm. Cán bộ Cảnh Vệ bắt
được, đánh đập chúng rất tàn nhẫn. Họ dùng báng súng đánh vào đầu
cho ngă lăn ra đất, xỉa đầu mũi súng vào ngực vào bụng, đá vào mặt
vào đầu. Chúng co rúm người lăn lộn trên mặt đất, chịu đ̣n kêu la
xin tha tội, nhưng chẳng được “chiếu cố”. Một người đánh chưa đủ, họ
xúm nhau 2, 3 người ùa vô đánh “đ̣n hội chợ”, thấy mà khủng khiếp.
Thế mà chúng cũng chẳng sợ, chứng nào vẫn tật nấy.
Mánh khoé cướp đoạt công khai giữa ban ngày, của bọn H́nh Sự này rất
tinh vi. Muốn lấy cả đôi “dép râu” của ḿnh, chúng lén lấy một chiếc
giấu vô trong bờ bụi quanh băi rác bên bờ sông. Khi tắm song lên,
nạn nhân bị đánh cắp thấy chỉ c̣n một chiếc dép, t́m hoài không thấy
chiếc kia, đành vứt quách chiếc c̣n lại vào đống rác đi chân đất về
trại. Thế là buổi tắm kế theo, thằng qủy sứ ṃ đến đống rác, công
khai đi lượm trước mặt các Cán bộ Cảnh Vệ, cả 2 chiếc dép mang ra để
làm của riêng, chẳng ai làm ǵ được nó. Thật vô cùng tinh khôn bịp
bợm. Phải chăng, đây là nền văn hoá giáo dục mà chúng đă tiêm nhiễm
được, từ khi c̣n nằm trong ḷng mẹ trước khi ra đời?
Trong giờ lao động, bao giờ chúng tôi cũng nhờ anh Nuôi của Đội, nấu
chín giùm những Gô ḿ, cơm, hoặc các thức ăn phụ khác, để đem vào
trại tăng cường cho các bữa ăn của ḿnh. Hết giờ lao động, trước khi
trở vào khu giam, tất cả các Đội đều được tập trung xuống bến sông
tắm. Trong khi ḿnh tắm, mấy thằng H́nh Sự ốm đói đảo tới khu để
quần áo, lén lấy những Gô đồ ăn chạy ra bên đống rác, bốc bỏ miệng
ăn ngấu nghiến cho kỳ hết, rồi vứt lon Gô không vào đống rác. Trường
hợp có người trông thấy tri hô lên, Cán bộ Cảnh Vệ xấn tới đánh nó
túi bụi, nó vẫn tỉnh khô chịu đ̣n và tiếp tục nhồi nuốt cho hết mới
thôi. Cũng có đứa chậm chạp hơn, chiếc Gô đang ăn dở bị giật ra, để
trả lại cho sở hữu chủ. Nhưng, ai mà dám ăn chỗ c̣n lại, đành phải
đổ đi. Lập tức có một đứa khác chạy ùa tới, bốc cho vào miệng ăn lấy
ăn để.
Từ đó về sau, mỗi khi xuống sông tắm, chúng tôi phải tổ chức cử
người thay phiên nhau, đứng canh chừng bên khu quần áo và đồ đạc cho
yên bụng.
Một buổi trưa đi lao động về, anh em đang chuẩn bị ăn, nghe nhiều
hồi c̣i huưt toét toét liên tục. Rồi thấy nhiều Cán bộ từ ngoài cổng
Trại, rầng rầng chạy vào Khu giam Tù H́nh Sự. Khoảng 10 phút sau,
thấy dẫn ra 2 đứa tay bị c̣ng quặt ra sau lưng. Một đứa, vừa đi vừa
bị đánh túi bụi ngă xấp ngă ngửa. Đứa kia, máu me đầy áo quần nơi
bụng. Buổi chiều đi lao động hỏi ra mới biết, 2 tay “anh chị đầu
băng đảng” thanh toán nhau, v́ chuyện xích mích giành đàn em phục vụ.
Đứa đâm người, là “Bụi đời” gốc Hà-nội, bị án tù chung thân v́ tội
bắt cóc, hiếp và giết chết cô gái con của ông Lănh Sự thuộc Toà Đại
sứ Đông Đức, đồng minh của Nhà Nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Đứa bị đâm, là “Anh hùng” khét tiếng của Hải pḥng, từng nổi
danh đem một toán bạn về tra khảo Bà Nội của chính nó để đ̣i tiền ăn
chơi, rồi thay phiên nhau hiếp dâm và giết để phi tang.
Từ khi có bọn H́nh Sự giam tại K2, các Cán bộ Cảnh vệ có dịp được
mua vui thoả thích tại “hiện trường lao động” một cách dă man, y như
ta thường thấy các đoạn giải trí của Vua Chúa thành La Mă trong các
phim truyện cổ, trích từ Kinh Cựu Ước. Họ treo giải thưởng 1 củ sắn,
để cho 2 đứa đánh đấm vật đá nhau kịch liệt. Đứa nào, đánh được đứa
kia hộc máu mồm máu mũi phải quỳ lạy xin thua, th́ được lấy giải
thưởng. Lúc nào cũng có 2 đứa hăng hái ra đấu để tranh giải.
Thật khủng khiếp, kết quả “to lớn” của nền giáo dục Xă hội Chủ nghĩa
Việt Nam, đấu tranh san bằng giai cấp, đem lại công bằng xă hội,
nhập cảng từ Liên xô Trung Cộng, và “Chính sách trăm năm trồng người”
của Bác Hồ áp dụng trong suốt hai mươi mấy năm, độc quyền cai trị
tại miền Bắc là như vậy sao?
Một buổi sáng trời trong vắt, anh em đang chuẩn bị ra tập họp xuất
Trại lao động, có lệnh An ninh yêu cầu các anh Đại tá Lê Đ́nh Luân (Đơn
vị 101 thuộc P.2 Bộ TTM), Phạm văn Phô (Đội phó), Trịnh Bảo
Chương, Tôn Thất Hùng (dân gốc Pḥng Nh́) ở lại Láng làm việc với
Cán bộ. Đến trưa măn lao động vào trại, mới biết các anh ấy đă được
Cán bộ từ Hànội tới chở đi khỏi Trại. Đến tối, trong giờ sinh hoạt
kiểm thảo, Quản Giáo Đội đứng ngoài cửa sổ chuyển lệnh, chỉ định anh
Đại tá Lê Phú Phúc làm Đội trưởng thay thế anh Luân. (Anh Phúc gốc
Truyền Tin, hồi những năm đầu thập niên 1960, Tôi là Thiếu Tá Cục
Phó Cục Truyền Tin Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tại Saigon, anh Phúc
là Đại Úy Liên Đoàn trưởng Liên đoàn Truyền Tin. Cơ sở Liên đoàn
đóng tại gần Trường đua ngựa Phú Thọ.)
Mấy ngày sau, bất thần có cuộc tổng xét tư trang Tù Chính trị miền
Nam toàn K2. Bọn Tù H́nh Sự vẫn xuất trại đi lao động như thường.
Sau buổi xét tư trang, có anh Trung tá (Chiến tranh Chính trị thuộc
Không Quân), ở một Láng trong cùng Khu Cách Ly của chúng tôi, bị bắt
giam vào Nhà Kỷ Luật. H́nh như Cán bộ bắt được quả tang, anh ấy xé
và vứt xuống hố nước tiểu, nơi đầu nhà phía sau Láng chúng tôi, mấy
tờ giấy có ghi chép những điều liên quan tới vụ thành lập Chính phủ
lưu vong, hay một Hội Cựu Tù Nhân Chính trị ǵ đó.
Những ngày kế theo, nhiều người bị gọi lên “làm việc” với Cán bộ An
ninh. Đội chúng tôi có anh Đại tá Nguyễn văn Lương (gốc Địa phương
Quân) cũng bị gọi lên “làm việc”, h́nh như anh ta có ghi danh nhận
một chức vị ǵ đó trong Ban Chấp hành của tổ chức dự trù thành lập.
Linh Mục Phan Phát Hườn thuộc Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, cũng bị
gọi lên điều tra, v́ nghe nói Ngài cũng có nhận một chức vị nào đó
trong Ban Chấp hành. (Hồi những năm đầu thập niên 1960, lúc Tôi làm
Cục Phó Cục Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu, Linh Mục Hườn là Tuyên úy
của Binh chủng Truyền Tin. Ngài đă giúp cho Binh chủng xây dựng được
một Nhà Nguyện, và một Trường Trung học đệ Nhất Cấp “Tinh Thần”, tại
Trại Gia binh của Tiểu đoàn Truyền Tin, ở ngay phía sau toà Nhà
Chánh của Bộ Tổng Tham Mưu. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn B́nh đến
Chủ lễ Khánh thành,)
Ngay sau buổi xét tư trang, Đội chúng tôi có sự thay đổi lớn. Một số
bạn Đại tá được chuyển qua Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ. Ngược lại,
một số Đại Đức Tuyên úy Phật Giáo và Linh Mục Tuyên úy Công Giáo trẻ
khoẻ, thuộc Đội Rau Xanh được tăng cường vào Đội chúng tôi. Sau vụ
“biên chế” này, Đội chúng tôi chấm dứt công tác Nông Nghiệp, trở
thành Đội Mía. Chúng tôi làm trong ḷ mía, chớ không làm ngoài đồng
mía như hồi trước. Đội được chia thành 4 toán (gọi là Khâu) để thực
hiện 4 công tác khác nhau. Khâu Róc Vỏ Mía và chuyển vào pḥng ép
mía. Khâu Ép Mía, chia thành 2 toán thay phiên nhau làm việc từng
đợt 30 phút. Mỗi đợt 2 người làm trâu đẩy cần quay, 1 người ngồi đẩy
mía vào giữa 2 trục ép, và 1 người lo chuyển miá vào cho người ép,
và đem các thùng nước mía đă ép đổ đầy vào các vạc lớn để trên ḷ.
Khâu Nấu Mật, lo đun các vạc nước miá, liên tục suốt ngày đêm, cho
sôi đến độ cạn quánh thành “mật đường”. Khâu sau cùng, gồm anh Dương
Hiếu Nghĩa (Đội phó) và một bạn phụ tá, lo ủ nước mía sống cho lên
men, để cất rượu trắng.
Mỗi Khâu làm việc có những vất vả nguy hiểm khác nhau. Khâu Róc Mía
phải làm thật nhanh, mới kịp đủ mía cho Khâu Ép không phải ngồi đợi.
Thân cây mía nhỏ cầm nơi tay trái, tay phải cầm dao róc. Làm không
cẩn thận, sẽ vạt đứt luôn mấy đầu ngón tay trái như chơi. Róc bỏ vỏ
dầy quá, sẽ bị kiểm điểm phung phí của Xă hội Chủ nghĩa.
Công tác của Khâu Ép Miá, có lẽ nặng nhọc vất vả nhất trong các Khâu.
“Bộ phận” đẩy cần trục ép gồm 2 người. Mỗi người đứng ở một đầu cây
cần gỗ dài, đi ṿng tṛn đuổi theo nhau, đẩy cho 2 trục ép bằng kim
khí cao 1 mét, đường kính rộng 50 phân, đầu trục có răng cưa xoay
ngược chiều nhau. Khi nào giữa khe của 2 trục không có những cây miá
mới đẩy vào để ép, việc đẩy trục quay thấy nhẹ nhàng, không tốn sức
bao nhiêu. Nhưng đến khi có những cây mía mới được đẩy vô ép, sức
cản trở nên nặng vô cùng. Muốn cho trục quay, cả 2 người đẩy phải để
2 bàn tay ngang ngực đè vào cần trục, bấm các đầu ngón chân xuống
đất ra sức đẩy về phía trước theo thứ tự từng chân một. Cứ mỗi 30
phút, các người đẩy cần trục quay phải được thay phiên, nếu không
chẳng c̣n sức mà tiếp tục. Tôi được chia vào toán phụ trách “bộ phận”
đẩy trục ép mía, thật vất vả hết chỗ nói.
Người chuyên ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép, ngó thấy có vẻ không
vất vả, nhưng lại có nhiều rủi ro nguy hiểm hơn cả. Phải làm sao đưa
đều đều liên tục từng ôm 4, 5 cây mía, vào khe giữa 2 trục ép một
lúc. Nếu không cẩn thận, bàn tay có thể bị dính cuốn theo, và bị ép
nát cả cánh tay như chơi. C̣n một điều khó khác nữa là, phải giữ làm
sao cho không cây mía nào đẩy vào ép, rắt vào các răng cưa của trục.
Dù chỉ 1 răng cưa bị rắt, trục cũng sẽ khựng lại không quay được.
Mỗi lần trục đang quay ngon trớn, bị kẹt khựng lại là một đ̣n nặng
đánh dồn vào ngực, của những người đẩy cần trục ép, đau tức ê ẩm như
muốn gẫy bộ xương lồng ngực.
Khâu Nấu Mật có những nguy hiểm vất vả khác. Mỗi khi có vạc đầy nước
mía bắt đầu đun, phải thay phiên nhau tiếp củi, giữ lửa cháy liên
tục đều đều suốt ngày đêm, đến khi cạn quánh thành “mật đường” mới
hoàn tất nhiệm vụ. Trong khi đun c̣n phải dùng cây bơi chèo, thong
thả khuậy nước mía sôi trong vạc, liên tục theo chiều quay của kim
đồng hồ, cho mật không bị lắng khê nơi đáy vạc. Trong ḷ nấu lúc nào
cũng có 2, 3 vạc sôi sùng sục, khí nhiệt toả ra nóng nực kinh khủng
hơn cả phơi nắng ngoài trời vào giữa trưa mùa Hạ. Khi nước mật bắt
đầu xệt lại, việc đứng bên mép miệng vạc cầm gậy khuậy tṛn, được
coi là lúc nặng nề khó khăn nguy hiểm nhất. Sơ ư có thể bị té vào
vạc mật chết phỏng như không. Trước khi Đội chúng tôi vào làm trong
ḷ mật, đă có một Tù H́nh Sự bị phỏng nặng v́ tai nạn này.
Công tác của Đội Miá vất vả nguy hiểm như vậy, nên Ban Giám Thị K2
“chiếu cố” chỉ thị Quản Giáo, cho chúng tôi một đặc ân làm chúng tôi
rất ngạc nhiên. Hàng ngày, mỗi buổi lao động, mỗi người trong Đội
chúng tôi, được “bồi dưỡng” 1 Gô đầy nước mía ép. Có thể để uống
tươi như vậy, hoặc đun sôi lên rồi mới uống, tùy ư. Nhờ thế, sau vài
tuần làm tại ḷ miá, anh em chúng tôi ai cũng có đôi má hồng hồng
như thoa phấn.
Nhưng, cuộc sống Tù có bao giờ được phẳng lặng, xuôi ḍng êm ả theo
mong muốn đâu. Thường xuyên lúc nào cũng có những tai ách bất ngờ,
hoặc do người hoặc do Trời đem đến, khiến cho mạng sống của Tù mong
manh chẳng khác nào “trứng treo đầu chỉ”. Vào một buổi trưa Chủ Nhật,
mọi người đang chuẩn bị nấu nướng thêm những món ăn “cải thiện”,
tăng cường cho ca Bo Bo luộc do Trại phát (loại thực phẩm dành cho
ngựa, của Ấn Độ viện trợ, ghi rơ bằng Anh ngữ ngoài bao đựng), th́
từ Khu bếp lộ thiên bên hàng rào phía cuối Khu Cách Ly của chúng tôi,
có tiếng xôn xao náo động. Rồi thấy một toán 3, 4 người xúm nhau
khiêng một anh mập mạp hôn mê bất tỉnh, xuống Bệnh Xá cấp cứu. Tôi
chạy ra coi, thấy đang khiêng anh Đại tá Nguyễn Ngọc Điệp (trước
30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bặc Liêu, từng nổi danh là “Hùm Xám Rừng
Đước”). Đến gần tối, mới thấy xe tải từ Phân trại K1 chạy vào, di
tản anh Điệp ra Bệnh Xá Trại Thanh Phong điều trị, v́ Bệnh Xá K2
không đủ phương tiện cứu chữa.
Theo tin tức từ Bệnh Xá, do bạn Tù (Bác sĩ Quân Y của QLVNCH) phụ tá
cho Cô Cán bộ Y tế của K2 cho biết : “-Anh Điệp bị hôn mê có lẽ v́
bị đứt mạch máu năo do cao áp huyết. T́nh trạng rất nguy kịch. Với
phương tiện nghèo nàn về Y Tế của Trại không biết có cứu được không?
Không biết Trại có cho di tản, ra Nhà Thương Thanh Hoá cấp cứu kịp
không?”
Chúng tôi rất buồn, thương cho hoàn cảnh không may của anh Điệp. Mọi
người chẳng làm ǵ hơn được, chỉ biết cầu nguyện cho Bạn tai qua nạn
khỏi. Sống chết, đều do mệnh Trời sắp đặt riêng cho mỗi người, chẳng
ai biết trước mà tránh.
Chừng mươi ngày sau, anh bạn Tù (Bác sĩ) Phụ tá tại Bệnh Xá K2, có
dịp theo Cán bộ Y tế ra K1 lănh thuốc về cho biết : “-Anh Điệp nằm
mê man nơi Bệnh Xá Trại Thanh Phong cả tuần sau th́ hồi tỉnh. Nay
anh ấy đă bắt đầu cử động được, nhưng chậm chạp khó khăn, nói năng
phát âm hơi ngọng nghịu, quên không biết ḿnh là ai, cũng như không
nhận ra được bạn bè cũ. Thường xuyên nói chuyện với những người vô
h́nh, y như người bị bệnh tâm thần trong các nhà thương điên.” Thật
tội nghiệp. Nhưng Trời chưa bắt chết là mừng rồi, sau này được tha
chắc chắn bệnh sẽ hết.
Hai tháng sau anh Điệp lành hẳn, đi lại nói năng được b́nh thường,
trí nhớ phục hồi được khoảng 80 phần trăm. Rời Bệnh xá Trại tại K1
trở về K2, anh Điệp được Ban Giám Thị Phân trại “chiếu cố”, đặc biệt
giao cho phụ trách chăm sóc vun tưới vườn bông, và vườn rau “cải
thiện” nhỏ của các Cán Bộ Trực Trại, ngay bên trước cổng Khu giam.
Lúc này anh bạn Tù (Bác sĩ) mới giải thích : “-Anh Điệp bị trường
hợp Nhũn Năo (stroke), chớ không phải đứt mạch máu năo, nên mới có
may mắn như vậy.”
Sau anh Điệp, ở K2 c̣n có thêm 2 người nữa cũng bị trường hợp y như
vậy. Một là Linh Mục người gốc Trung Hoa cao lớn mập mạp (trước
30-4-1975 cai quản Đặc Khu Hải Yến, gồm toàn người Trung Hoa vùng
Quảng Tây chạy sang Việt Nam tỵ nạn, từ khi toàn Lục địa Trung Hoa
Dân Quốc của ông Tưởng Giới Thạch lọt vào tay Trung Cộng Mao Trạch
Đông. Đặc Khu Hải Yến là một vùng biệt lập hẻo lánh giữa ranh giới
Cà Mâu và Rạch Giá tại miền Tây Nam Việt. Cư dân có tinh thần chống
Cộng rất mănh liệt.) Sau nhiều ngày bị nằm liệt v́ Nhũn Năo tại Bệnh
Xá K1, Linh Mục cũng hồi tỉnh trở lại b́nh thường, trả về K2 làm
chung công tác lo vườn hoa với anh Điệp. Ngày ngày đi xuống leo lên
con dốc nghiêng 50 độ, dài chừng 50 mét, để sách từng thùng nước
sông lên tưới rau và hoa trước cổng Khu Giam. Người thứ hai là Trung
tá Nguyễn Thủy Chung thuộc Đội Nhà Bếp (trước 30-4-1975 làm Phụ tá
Trưởng Khối Tổ chức Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, Tôi đă có dịp
nói đến trong một đoạn trước). Số mệnh anh Chung không may bằng 2 vị
kia, nên bị “bán thân bất toại”, nói ngọng. Một thời gian sau được
tha về, và đă qua đời tại Saigon. Chẳng biết sau này Vợ Con của anh
Chung, có được Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho đi định cư tỵ nạn theo
diện H.O. hay không ?
CƯ DÂN XÓM HOÁN BÙ.
Sửa đường xuyên xóm Hoán Bù,
Phùn giăng Bấc thổi mịt mù rừng hoang.
Tranh nghèo mươi mái chắn ngang,
Thành phần Đảng buộc bỏ làng đến đây.
Xưa kia Cha ruột theo Tây,
Thuộc ḍng “Tư Sản” phải đầy cách Dân.
Bốn năm chuyển chỗ một lần,
Thâm sơn cùng cốc, trước gần sau xa.
Quần quây Nam, Nữ, Trẻ, Già,
Bên nhau cả Họ tham gia cuốc cầy.
Thiếu nhi tuổi trẻ thơ ngây,
Gom phân, cắt cỏ hàng ngày định công.
Tuổi già sáu chục lưng cong,
Trăn trâu, giữ trẻ, vợ chồng chia lo.
Sắn, ngô độn bữa đói no,
Thân choàng áo đụp co ro cơ hàn.
Ốm đau, lá ngải xông than,
Mệnh chung, chiếu cuộn xác quàn bờ gai.
Sống nay chẳng biết đến mai,
Cuộc đời tăm tối, nào ai thấu cùng?
Tiếng than dâng thấu Thiên Cung,
Hỡi Trời! thấy cảnh năo nùng này chăng?
Xuân Tân Dậu-1981.
Trên đường đi K3,
Trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá.
HOME
(C̣n tiếp..) |