Chương 22
MUỐN TRAO ĐỔI LẤY ĐÔ LA,
CHO GIA Đ̀NH NUÔI TÙ MẬP
Nhiều đợt phát Bưu kiện thực phẩm từ miền Nam gửi ra, đă được
Trại ra tỉnh lănh về phát hàng tuần. Hầu hết các bạn trong Đội, ai
cũng có phần. Mỗi tháng Trại chỉ cấp cho mỗi người một Phiếu Bưu
Kiện để gửi về gia đ́nh, thế mà Đội chúng tôi có vài anh, kỳ nào
phát Bưu kiện cũng được gọi tên lănh. Có người c̣n được nhận 3, 4
Bưu kiện một lúc.
Sau 2 tháng các Bưu kiện ào ạt tới Trại, trong Đội chỉ có tôi và
khoảng 5 bạn khác nữa, chưa nhận được một Bưu kiện nào. Mấy bạn quen
thân, thấy tôi cũng mới nhận được thư của gia đ́nh, gửi đến trong
đợt học tập vừa qua, mà sao không có Bưu phẩm, thắc mắc, đến gần thủ
thỉ hỏi xem gia đ́nh có gặp trở ngại ǵ không? Tôi buồn, lo lắng,
lấy thư của con đem ra đọc đi đọc lại, cố t́m cho ra manh mối, chẳng
thấy tin ǵ khác lạ. Ngoài cái tin con gái lớn, được đi làm ở Bệnh
viện Nguyễn văn Cội vùng Củ Chi, cách Saigon vài chục cây số, và tin
người con trai kế, trước 30-4-1975 học Y Khoa Minh Đức, được Pḥng Y
tế Phường cử đi chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào của Quận, đang công
tác tại khu Thủy lợi Lê Minh Xuân.
Mọi người đoán già đoán non, an ủi rằng : “đi làm xa Saigon”, “đi
công tác tại khu Thủy lợi”, không chừng đây là những lời bóng gió
báo tin là 2 người con của tôi, đă gặp được mối tổ chức “đi vượt
biên” rồi. Nếu đúng th́ là điều đáng mừng, v́ nhiều bạn trong chúng
tôi, cũng từng được gia đ́nh gửi thư nói như vậy, để báo tin con đă
“vượt biên” ra khỏi Việt Nam. Chắc là vợ của tôi ở nhà bận bịu lo
cho con như vậy, nên chậm trễ trong việc đi gửi Bưu kiện, không có
ǵ đáng lo, trước sau ǵ rồi cũng có quà. Có người đề nghị cho tôi
mượn ḿ ăn liền “bồi dưỡng” đỡ, khi nhận được quà trả lại sau. Tôi
từ chối không nhận, v́ chẳng biết hoàn cảnh thật của vợ con ra sao,
lỡ không có quà lấy ǵ để trả nợ.
Tôi kiên nhẫn chịu đựng, tiếp tục mưu sinh linh tinh cho qua cơn đói
khổ. Anh Tổ trưởng của tôi không c̣n quan tâm góp ư kiến “xây dựng”
cho tôi, trong những buổi kiểm thảo ban đêm của Đội nữa. V́ chính
bản thân anh ấy cũng chưa nhận được Bưu kiện nào như tôi, và đang
mưu sinh linh tinh c̣n bạo hơn tôi. Qua những mẩu chuyện tâm sự của
anh ấy, tôi cảm đoán được h́nh như trước 30 tháng 4 năm 1975, anh ấy
có chuyện ǵ lủng củng trong gia đ́nh, giữa 2 bà vợ lớn vợ nhỏ sao
đó, nên bây giờ chẳng ai lo cho. Thật tội nghiệp!
Ngày rồi lại ngày cứ lặng lẽ trôi qua. Bỗng một hôm, một cơn mưa
thật lớn đổ xuống suốt cả buổi nghỉ trưa. Đến giờ tập họp đi lao
động chiều mưa mới dứt. Nước úng không rút kịp, tràn ngập đầy sân
tập họp, lơng bơng cao tới mắt cá chân. Không ngồi chồm hổm trên mặt
đất được, mọi người phải đứng chờ đợi lệnh xuất trại. Ánh sáng mặt
trời le lói hun đốt, làm cho mảng sân tập họp bốc hơi, nồng nồng mùi
mốc mốc tanh tanh. Tự nhiên nghe thấy anh em Tù, đồng loạt phát ra
một âm thanh vui vẻ ồ.ồ.ồ!!!, làm tôi giật ḿnh chú ư nh́n về phiá
Cổng trại. Cán bộ phụ trách phát Bưu kiện xuất hiện, đọc tên những
người được nghỉ lao động ở nhà lănh quà gia đ́nh gửi tới.
Có tên tôi, mấy bạn quen thân reo mừng nhắc gọi, sợ tôi không nghe
được. Tôi rời hàng ra đứng ở cuối sân chờ các Đội xuất Trại xong,
cùng một số Tù khác đến Hội trường, đợi lệnh gọi lần lượt vào kư
lănh Bưu kiện. Sau khi kư tên vào sổ, phải đem Bưu kiện của ḿnh mới
nhận tới một bàn dài, trải tấm ni-lông che mưa của ḿnh trên mặt bàn,
mở gói quà ra, bầy tất cả mọi thứ lên trên, rồi đứng đợi Cán bộ tới
xét từng món một.
Cán bộ không đích thân tới xét, mà là anh “Thi Đua” (tù H́nh Sự) làm
thay. Những bịch nào chưa kịp mở banh ra sẵn sàng cho anh ấy coi,
anh ấy lấy con dao nhọn dọc rách bao ni-lông, rồi bới tung ra t́m
t́m kiếm kiếm vật ǵ chẳng biết. Gặp bịch ḿ ăn liền vụn c̣n đỡ,
chẳng may gặp bịch sữa bột hay bịch đường cát, coi như tiêu mất hết
phần tư. Bột sữa và đường, c̣n dính tùm lum sang các bịch khác bê
bết, sẽ là mồi cho kiến đánh hơi bu đến làm tổ trong bao đựng quần
áo, nơi cất thực phẩm tại đầu xạp ngủ chỗ ḿnh nằm.
Hộp sữa đặc, có nhăn hiệu ghi bằng chữ Việt Nam rơ ràng, anh “Thi
Đua” cũng lấy dao đâm thủng một đầu hộp, thọc đũa vào ngoáy ngoáy
t́m kiếm xem có vật ǵ lạ khác dấu ở trong không. Keo mắm ruốc xào
khô với thịt bằm và xả ớt, anh “Thi Đua” cũng đổ ra bới bới để kiểm
tra. Nước mỡ chẩy tùm lum, mùi mắm kho thơm nồng nặc, làm con tỳ con
vị trong bao tử nôn nao phát ứa nước miếng nuốt không kịp...
Sau khi kiểm tra kỹ càng tất cả mọi món xong, anh “Thi đua” đến báo
cáo Cán bộ là không có ǵ. Cán bộ gật đầu cho phép thu vén lại “khẩn
trương” đem đi, nhường chỗ cho người khác tŕnh quà của họ. Nếu có
thư gia đ́nh để trong gói quà, phải nộp để Cán bộ giữ lại kiểm duyệt.
Vài ngày sau Quản giáo Đội mới phát cho, nếu được phép nhận để đọc.
Thời gian đợi đến lượt vào kư nhận quà th́ lâu, chớ thời gian kiểm
tra chẳng bao lâu. Bưu kiện chỉ có 5 kí lô, 2 hộp sữa đặc là 1 kí,
nửa kí đường thẻ, nửa kí đường cát vàng, 1 kí ḿ vụn loại ăn liền để
trong 2 bọc, 1 kí bánh ḿ xấy khô cũng để trong 2 bọc, nửa kí bột
đậu xanh hay đậu nành, c̣n nửa kí đồ linh tinh như thuốc đánh răng,
xà bông tắm giặt, khăn mặt, tem thư, giấy viết thư, bút nguyên tử,
âu dược chữa bệnh, thuốc bổ tăng cường các loại sinh tố...là hết.
Chỉ những người được lănh 2, 3 Bưu kiện một lúc, lỉnh kỉnh lắm thứ
mới mất nhiều thời giờ. Ngoài mấy thứ chính như ḿ ăn liền, bánh tổ,
cốm dẹp, cơm sấy khô, biscot, c̣n nào là thịt chà bông, lạp xưởng,
các hộp thịt ḅ, thịt heo, thịt gà, cá ṃi ngâm dầu hoặc sốt cà chua,
kẹo, bánh ngọt, bơ, margarine, phó mát, trà ướp hoa lài hay hoa sen,
cà phê, thuốc lá thơm...
Thường anh em chỉ xin gia đ́nh cung cấp cho những thứ có chất bột,
chất đạm, chất béo và chất ngọt, đang là nhu cầu chính yếu cần thiết
nhất cho cơ thể. C̣n thuốc lá thơm, trà, cà phê thuộc loại xa xỉ
phẩm, đang ở trong tù có hay không cũng được. Nhưng đối với những
bạn ghiền nặng, gia đ́nh dư giả tiền, th́ các món đó cũng là nhu cầu
cần yếu không thể thiếu được. Ngoài ra các món đó c̣n là những thứ
cần có, để mua cảm t́nh của Quản giáo Đội, để được đối xử dễ dăi hơn
các bạn bè, trong việc gửi nhận thơ đều đặn hàng tháng...
Măi về sau, một vài bạn tốt bụng mới rỉ tai riêng cho nhau biết là,
ở Saigon người ta in Phiếu Bưu Kiện đúng hệt như mẫu phiếu do các
Trại phát cho Tù gửi về nhà, bán công khai ngay trước sân nhà Bưu
điện Saigon, gần bên Nhà Thờ Đức Bà. Người ta cũng bầy bán đầy đủ
những gói, những keo, những hộp thức ăn khô đủ loại, được Bưu điện
chấp nhận cho gửi, để thân nhân Tù mua tại chỗ cho tiện đỡ mất công
làm lấy. Nếu ai mua toàn bộ đủ 5 kí lô những thứ họ bán để gửi đi,
họ c̣n gói cột chắc chắn đàng hoàng, ḿnh chỉ việc ghi Tên địa chỉ
người gửi và người nhận xong, là họ đem vào gửi giùm đỡ phải đứng
xếp hàng chờ đợi cả ngày. Dĩ nhiên khách hàng phải tỏ ra sởi lởi,
chi tiền đầy đủ theo đ̣i hỏi của họ. Hẳn là họ phải có đường dây
riêng làm tay trong, do Cán bộ Bưu điện Nhà Nước cầm đầu, mới dám
công khai hành động như vậy.
Không phải bà vợ nào cũng dư giả tiền, và dám thử liều gửi lậu như
vậy. V́ sợ chẳng may bị lừa, hoặc bị Công an gài bẫy bắt th́ nguy.
Ngoài ra c̣n e ngại sợ gửi nhiều hơn quy định, không biết Trại có
cho nhận không? Lỡ quà ra đến nơi, Trại không cho nhận, c̣n hạch hỏi
làm sao ở nhà có nhiều phiếu gửi quà như vậy? Rồi phạt không cho Tù
nhận quà nữa, mới là khốn nạn khó gỡ.
Sau này khi được tha về, vợ của tôi cho biết là ở nhà cũng biết
chuyện ấy, nhưng v́ hoàn cảnh kiếm sống hàng ngày nuôi các Con rất
chật vật. Nên mỗi tháng chỉ lo chắt bóp gửi cho tôi được 1 gói quà 5
kí lô, đă là một cố gắng hết sức rồi.
Khoảng sau Noel năm 1978, nhóm Đại tá chúng tôi được lệnh rời K1 di
chuyển về K5, nơi có Ban Chỉ huy Trại Tân Lập. Đồ đạc được chất lên
xe chuyên chở, c̣n người đi bộ theo sau. Cán bộ cảnh vệ đeo súng đi
dẫn đầu và tập hậu để áp tải, đề pḥng Tù lủi trốn vào rừng. Trên
dọc đường, tại những khúc quanh không nh́n thấy được từ xa, c̣n có
thêm cảnh vệ ôm súng đứng phục sẵn trong sâu để canh chừng.
Con đường đá rộng 4 mét, dẫn ṿng vèo theo sườn núi, thoai thoải
xuống dốc từ từ. Dưới khe, nước suối chảy ŕ rầm đều đều như tiếng
cối xay lúa. Cây rừng cao dầy đặc 2 bên đường. Những cây thấp nhỏ,
phải nghiêng ḿnh vươn nhô ra mặt đường trống, để đón nhận ánh sáng
mặt trời.
Đoàn Tù gầy ốm chỉ c̣n da bọc xương, mặt hốc hác, lầm lũi, mũi thở
ra khói, co ro run rẩy nối đuôi nhau 2 hàng dọc, lê bước di chuyển
bên lề phải đường. Thỉnh thoảng đôi con chim đang c̣n ngủ trong tàn
lá, nghe tiếng động của đoàn người đi ngang, giật ḿnh bay vụt lên
cao, rồi biến mất trong rừng già.
Chín giờ sáng mà không khí vẫn c̣n lạnh cóng. Sương mù c̣n phủ đặc
rừng cây. Hương thơm của hoa rừng thoang thoảng, hoà lẫn với mùi
mông mốc của lá mục, làm tôi tưởng nhớ lại thuở ấu thơ theo Đoàn
Hướng Đạo Sinh đi cắm trại, t́m hiểu thiên nhiên vạn vật vào mùa
Đông ở Lạng Sơn. Một tỉnh địa đầu miền thượng du Bắc Việt, ráp ranh
với Trung Hoa, nơi có di tích lịch sử Ải Nam Quan, Chợ Đồng Đăng,
Phố Kỳ Lừa, núi Nàng Tô Thị với Chùa Tam Thanh.
Mê mải nh́n cảnh vật, ch́m trong màn sương đang lộ dần dưới ánh mặt
Trời ban mai, suy nghĩ miên man quên cả hiện tại. Tôi vấp chân nhằm
một ḥn đá lớn, lồi trên mặt đường ngă chúi về phiá trước, lăn quèo
mấy ṿng trên đất làm mọi người ngạc nhiên. Tỉnh mộng, tôi lồm ngồm
đứng lên vừa đi vừa phủi quần áo dính đầy đất và lá khô vụn, nhoẻn
miệng gượng cười thẹn đỏ gay cả mặt mũi, 2 tai nóng bừng bừng.
Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau khi rời K1, chúng tôi ra khỏi các
khúc quanh của núi rừng. Một thung lũng chừng 3 cây số bề dài, 1 cây
số bề rộng hiện ra trước mặt, có con sông ḷng đầy sỏi đá lớn nhỏ
uốn khúc ŕ rầm chảy ngang. Xa xa bên kia sông có một phân trại (tôi
không biết đó là K mấy). Phiá bên này cách đường lớn khoảng 1 cây số,
sát ngay bên bờ sông là K5. Ban chỉ huy Trại Tân Lập trụ tại đây,
với tấm bảng hiệu Công An Nhân Dân to tướng. Chúng tôi đă có dịp
nh́n thấy cả năm về trước, khi đoàn xe Quân đội đưa chúng tôi chạy
ngang không dừng lại.
Cách ngă ba đầu đường dẫn vào K5 chừng 300 mét, về phiá tay phải có
một khu nhà lá gồm 3 căn nho nhỏ cất riêng rẽ, vây quanh miếng sân
vuông chục mét mỗi cạnh. Sau này mới biết là Nhà Thăm Nuôi, nơi Tù
và thân nhân được phép đến thăm gặp nhau.
Phiá trước khu Nhà Thăm Nuôi, ngay sát bên đường vào K5 là một nhà
canh, có Cán bộ ngồi kiểm soát việc ra vào Trại. Cán bộ áp tải chúng
tôi đến tiếp xúc, rồi dở cần tre cản ngang đường lên cho chúng tôi
đi qua. Hai bên con đường đất rộng 4 mét, dài khoảng một cây số dẫn
vào K5 là ruộng để trồng luá.
Trụ sở của Ban Chỉ huy Trại Tân Lập và K5, ở phiá sau chiếc cổng có
bảng hiệu Công An Nhân Dân, gồm nhiều nhà mái ngói mái tôn lẫn lộn,
với những đường đi nhỏ cắt dọc ngang như một xóm dân cư ngụ. Khu gia
binh cho Công an có gia đ́nh ở tít phiá sau gần bờ sông. Chúng tôi
được dẫn đi đến khoảng c̣n chừng vài trăm mét, trước khi tới chiếc
cổng treo bảng hiệu Công An Nhân Dân, th́ rẽ sang phải theo con
đường dẫn vào trại giam K5.
Bên trong Trại giam K5, thiết trí kiến trúc cũng tương tự như trại
giam K1, nhưng rộng lớn và nhiều nhà giam hơn. Chung quanh cũng có
tường rào bằng gạch cao 4 mét, thêm hàng kẽm gai trên đỉnh. Sườn
hướng Đông của Trại nằm dọc theo sông, cách bờ chừng 100 mét.
Vào qua cổng sắt lớn là một sân tập họp vuông rộng. Cuối sân có một
vườn hoa và Hội trường chứa được cả ngàn người, với một cây cổ thụ
xum xuê cành lá xanh tươi quanh năm. Chung quanh gốc cây cổ thụ là
nơi Tù được phép tới đó vào ngày Chủ nhật nghỉ lao động, để nấu
nướng, hâm xào lại các thực phẩm khô do gia đ́nh gửi tới cho ăn dần
khỏi bị hư thối.
Ngay sau cổng vào, ở phiá bên trái sân tập họp là một dẫy nhà tường
gạch mái tôn, khu biệt giam Tù H́nh Sự. Dẫy nhà này có tường rào
bằng gạch cao 3 thước bao quanh, và phân cách từng ngăn riêng không
thông thương được với nhau. Mỗi ngăn chứa được khoảng 30 người. Nhóm
Đại tá chúng tôi bị giam vào ngăn áp chót trong dẫy nhà này. Các
Linh mục và Đại đức Tuyên úy Quân đội bị giam ở ngăn kế bên chúng
tôi.
Các ngăn không thông thương được với nhau ở dưới đất, nhưng bức
tường trong nhà để phân cách các ngăn, nơi sát mái nhà có chừa một
lỗ ṭ ṿ người chui lọt, không biết để làm ǵ. Từ nền nhà lên đến
mái để trống hốc, không làm trần cản hơi nóng. Ngay lỗ ṭ ṿ và dọc
dài trên dàn kèo nhà sát mái tôn, có căng giây kẽm gai. Sau này, bọn
Tù H́nh Sự thường lẻn chui qua ban đêm, lúc anh em ngủ say, lấy trộm
quần áo và thực phẩm của chúng tôi để ở trên giàn sát mái nhà.
Chỉ những người nằm ở sàn ngủ tầng trên cao mới bị mất trộm. Tôi bị
móc mất chiếc áo len cao cổ dài tay mầu hoa cà c̣n mới tinh, do vợ
tôi đan theo kiểu riêng, ngoài chợ không có bán, nhất là ở ngoài Bắc
th́ không thể nào có được. Nhiều bạn khác cũng mất quần áo và c̣n
mất cả thực phẩm khô. Có thể là bọn H́nh Sự đă chui qua ăn trộm
nhiều lần, nhưng anh em không biết, v́ không ai ngờ chúng dám cả gan
làm như vậy.
Nhờ một hôm vào khoảng quá nửa đêm, có anh bạn đang ngủ thấy có chất
nước nhờn xền xệt, rớt qua đ́nh mùng ni-lông xuống mặt làm giật ḿnh
ngồi nhỏm dậy. Mở mắt nh́n thấy thoáng có bóng người, chạy chuyền
trên các đà gỗ sát mái nhà về phiá cuối pḥng, nơi để chiếc thùng
cho Tù giải quyết vấn đề vệ sinh ban đêm. Đây là điểm ráp ranh giữa
pḥng giam chúng tôi và pḥng giam bọn Tù H́nh Sự. Quan sát kỹ thêm,
anh ấy thấy một vật ǵ nặng làm vơng đ́nh mùng nên chui ra lấy xuống,
mới biết đó là hộp sữa đặc bị đục thủng lỗ và sữa ở trong đă cạn gần
hết. Túi đựng quần áo và thực phẩm khô của anh ấy để trên giàn bị mở
tung.
Sáng hôm sau, sự việc được báo cáo anh Đội trưởng báo động cho anh
em đề pḥng, và ŕnh để bắt quả tang nếu chúng tái diễn.
Một tuần sau, có bạn nằm tầng trên sát bên tường, đi tiểu đêm vào
lúc gần sáng xong vừa trèo trở lên chỗ nằm, nghe tiếng động trên
giàn kèo nhà, ngẩng lên thấy bóng người đang chui qua lỗ tường, anh
ta vùng ra khỏi mùng chụp lấy chân kẻ trộm. Hắn dẫy mạnh chân vuột
ra khỏi tay anh bạn, và chui tuốt qua bên kia tường luôn, nhưng chân
của hắn bị kẽm gai gây thương tích rất nặng, máu chảy ra dính đầy
trên tường và trên kèo gỗ.
Đến sáng, ngay khi Cán bộ Trực Trại đến mở cửa pḥng giam cho chúng
tôi ra, anh Đội trưởng vội vă báo cáo ngay sự việc đă xẩy ra lúc ban
đêm. Cán bộ ghi nhận và khi sang mở khoá pḥng giam H́nh Sự bên cạnh,
đă khám xét từng người trước khi bước ra khỏi cửa. Ông ấy đă bắt
được người có vết thương nơi chân c̣n mới nguyên. Ông ấy giữ tất cả
bọn H́nh Sự trong pḥng giam, rồi lần lượt bắt từng đứa một đem tư
trang ra sân khám xét, và cho chúng tôi những ai biết là ḿnh bị
trộm, tới nhận diện những vật đă bị đánh cắp để lấy lại.
Qua khỏi khu biệt giam chúng tôi, là một khoảng đất trống đang trồng
rau, rồi đến mấy dẫy nhà vách gỗ mái tôn, giam anh em Tù miền Nam.
Pḥng giam dành riêng cho Ban Thi Đua nằm ở ngay nhà đầu của khu này,
có thể trông được toàn cảnh vật chung quanh khu sân tập họp ra tuốt
đến cổng trại giam.
Ở phiá cuối khu là nhà vệ sinh công cộng, cho Tù xử dụng trong ban
ngày, được xây cất bằng gạch mái lợp tôn, có cửa lửng che trước mỗi
ngăn ngồi đại tiện, có hàng hiên dài phiá trước để không bị hắt ướt
vào mùa mưa, trong khi ngồi làm nghiă vụ nộp phân bón hàng ngày cho
Trại.
Bên phiá đối diện, tức là phiá bên phải sân tập họp đứng từ cổng
nh́n vào, là khu Bệnh xá và Nhà bếp. Kế theo là một khu bao quanh
bởi bức tường gạch cao, với một lối ra vào duy nhất, gồm nhiều nhà
gỗ mái tôn cũng dùng để giam Tù miền Nam. Vào tháng 1 năm 1980, nhóm
Đại tá chúng tôi được chuyển từ khu biệt giam H́nh Sự sang khu này ở
một ngày một đêm. Trước khi chúng tôi bị áp giải lên đường đi Trại
Thanh Phong, trong vùng rừng núi Trường Sơn thuộc huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam.
Thoạt mới tới K5, nhóm Đại tá chúng tôi được chỉ định là Đội Nông
Nghiệp, có một số thứ tự riêng để gọi nhưng Tôi không nhớ.
Mùa Đông năm 1978, Bắc Việt có một đợt lạnh chết người. Theo lời các
Cán bộ già, hiện tượng này chưa từng xẩy ra trong ṿng mấy chục năm
qua, trên đất Bắc Xă hội Chủ nghiă.
Để làm mùa vụ Đông Xuân, Trại có khu ruộng mạ giống, ngay bên đường
phiá trước Nhà Thăm Nuôi, cần phải nhổ gấp cho khỏi bị chết cóng.
Đội chúng tôi được huy động làm “khẩn trương”. Buổi sáng khi Đội ra
tới “hiện trường lao động”, thấy ở phiá bên kia đường, một con trâu
trẻ mập nằm gục chết cóng ngay giữa ruộng. Thế mà anh em chúng tôi
vẫn phải bỏ giầy, vắn quần đến đầu gối, vén tay áo tới cùi chỏ, lội
xuống ruộng nhổ mạ, bó lại đem về ủ trong nhà kho cho mạ khỏi chết.
Dưới nước, điả cũng cóng thun ṿi bám vào gốc mạ, không tung tăng
bơi đi t́m chân người hút máu như những lúc trời ấm áp.
Giao việc cho Đội xong, cả Quản giáo Đội lẫn Cảnh vệ đều co ro cúm
rúm ṃ đến ngồi bên bếp lửa, hơ tay xoa mặt, hút thuốc lào, và chờ
anh phụ trách nấu nước của Đội pha trà Tầu, nấu ḿ cung phụng cho ăn
để hâm nóng cơ thể.
Chúng tôi tự động thay phiên nhau, xuống ruộng làm trong 5 phút rồi
lại lên, đến bên ḷ nấu nước để hơ chân tay cho khỏi cóng. Và cứ
tiếp tục như vậy trong suốt buổi lao động, không cần xin ư kiến của
Cán bộ. Ông ta nh́n thấy, cũng lẳng lặng đồng t́nh không nói năng ǵ.
Thật là một đầy đọa vô cùng dă man, may mà không ai trong chúng tôi
chết cóng tại chỗ. Nhưng ngày hôm sau, hầu như cả Đội bị cảm hàn,
ho, sổ mũi, khản đặc nói không ra tiếng. Nhiều người bị sốt cao, đau
cổ họng phải xin đi khám bệnh. Ngặt nỗi, mỗi ngày Trại chỉ cho phép
mỗi Đội ghi tên 2 người đi khám bệnh, nên anh em phải tùy trường hợp
nặng nhẹ mà nhường nhau.
Cũng rất may tại Trại này, âu dược do gia đ́nh gửi trong các Bưu
kiện không bị tịch thu, nên ai nấy dùng thuốc riêng điều trị cả chục
ngày mới qua khỏi. Riêng anh Tổ trưởng của tôi (Đại tá Nguyễn văn
Của, trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng B́nh Dương) bệnh không thuyên
giảm. Mỗi ngày anh em phải nhường cho ghi tên đi khám bệnh, và được
nghỉ lao động ở trong Trại cả tuần lễ vẫn không hết. Sau cùng anh ấy
được vào nằm điều trị tại Bệnh xá, một thời gian tương đối lâu.
Một hôm, vào sáng Chủ nhật cả Trại nghỉ lao động, anh ấy ghé về Láng
ở của Đội thăm anh em, hớn hở khoe rằng ở Bệnh xá được ăn cơm trắng
thay v́ ăn sắn. Thấy sắc diện anh ấy cũng khá hơn trước, bạn bè ai
cũng mừng chúc anh ấy mau lành để sớm trở về với Đội. Mục đích chính
anh ấy về thăm anh em là để xin âu dược Streptomicine trị bệnh, v́
bệnh xá không có. Nhưng thật đáng tiếc là anh em cũng không có. Anh
ấy buồn bă ỉu x́u trở lại Bệnh xá trong lo lắng. Hai ngày sau, một
tin đau ḷng đă đến với anh em chúng tôi, anh Của chết v́ sưng phổi
làm ngộp thở, cứu không được.
Sau vụ làm mùa Đông Xuân, Đội chúng tôi được điều động đi phát cỏ
khu đất cao dọc bên bờ sông, để trồng khoai rong giềng (trong Nam
gọi là củ bột ḿ tinh). Các công tác tiếp theo là dọn cỏ ruộng miá,
rồi đi đốn miá, chất lên xe nộp cho Ḷ ép lấy nước nấu “mật đường”,
để cất rượu trắng cho Trại bán.
Trong số 5, 6 người chưa có quà của thân nhân, hoặc mới chỉ nhận
được một gói như tôi, vẫn phải lén cải thiện linh tinh. Chẳng may
vào một buổi sáng trời mây ảm đạm âm u, anh Đại tá Trần Kim Hoa (trước
30-4-1975 làm tại Văn Pḥng của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) bị Cán
bộ cảnh vệ bắt gặp, đang ngồi trong giữa ruộng ăn lén một khúc miá.
Cảnh vệ nạt nộ, dẫn anh ấy ra giữa đường đi trong ruộng miá, nơi anh
em đang ngồi nghỉ giải lao, bắt phải ngồi ăn và nuốt hết cả bă lẫn
nước khúc miá, đă lấy trộm của Xă hội Chủ nghiă và Nhân dân trong
khi lao động. Thật tàn bạo hết chỗ nói.
Anh Hoa ngồi ́ ra đó, nhất định không làm theo lời buộc vô lư của
Cảnh vệ, tuổi c̣n non choẹt cỡ con của chúng tôi. Anh Cảnh vệ tức
tối hăm he dùng đủ mọi thứ tiếng tục tằn, để sỉ nhục chung cả chúng
tôi chớ không riêng một ḿnh anh Hoa. Nào là : “-Đồ bán nước, cặn bă
của Xă hội. -Cha mẹ chúng bay không biết dậy dỗ, để chúng bay đi làm
Ngụy tay sai cho Đế quốc. -Chúng bay ăn ǵ mà ngu thế... Trong khi
đó Quản giáo Đội chúng tôi chẳng nói ǵ, bỏ đi chỗ khác, h́nh như
không muốn dính vào vụ căi cọ giữa Cảnh vệ hung hăng phi lư đối với
Tù.
Mọi người lo cho anh Hoa, có thể bị kỷ luật v́ việc này. Nhưng rồi
chẳng thấy ǵ, sự việc êm ả qua đi trong quên lăng của mọi người.
Ngày hôm sau, Đội chúng tôi được đưa vào làm tại ḷ ép miá. Một số
anh em ngồi gióc vỏ cây miá trước khi cho vào trục ép. Một số khác
luân phiên nhau, đẩy cần quay trục ép miá thay cho trâu.
Rút kinh nghiệm vụ anh Hoa, anh em ai thấy cần cải thiện chất ngọt
th́ xin Cán bộ, cho nhặt những khúc gốc và ngọn miá vứt dưới hố rác
bên ḷ nấu mật, đem ra sông rửa sạch trong giờ đi rửa chân tay trước
khi trở về trại nghỉ, và ăn ngay bên bờ sông, hoặc dấu vào bị đem về
trại ăn sau vào buổi tối.
Từ Tết Kỷ Mùi (1979) trở đi, Tù được ăn độn hàng ngày theo “tiêu
chuẩn” 75 phần trăm “sắn duôi” và 25 phần trăm cơm trắng. Theo thông
lệ, tới khoảng tháng 4 (tháng giáp hạt) là thời gian hè không trồng
được lúa, phải trồng hoa mầu phụ như đậu, cà, bắp, Tù thường phải ăn
“sắn nút chai”. Nhưng không biết v́ sao, năm nay Trại bắt đầu được
cung cấp hạt Bo Bo và bột Ḿ do nước ngoài viện trợ, cho Tù ăn thay
“sắn nút chai”.
Phải chăng đây là kết quả Hội nghị tại Genève, do Liên Hiệp Quốc
triệu tập theo yêu cầu của Hoa Kỳ, để giải quyết vấn đề nhân đạo đối
với Tù chính trị miền Nam ?
Cán bộ Quản giáo Đội Nhà Bếp ở đây, cũng chỉ dẫn cho Tù cách nhồi
bột Ḿ với nước, đóng theo khuôn gỗ tṛn, luộc chín phát cho Tù y
như bên Trại Quân đội trước kia. Chắc đây là “kỹ thuật đồng bộ”, Nhà
Nước Xă hội Chủ nghiă nghiên cứu và truyền dạy cho Quân Cán cả nước
cùng theo.
“Tiêu chuẩn” phần ăn hàng ngày vẫn ít ỏi, không trang trải đủ nhu
cầu cần yếu của cơ thể. Nạn đói vẫn tiếp tục hành hạ những người như
tôi, không được gia đ́nh tiếp tế sung túc đầy đủ như các bạn khác.
Nên ngoài việc cải thiện linh tinh lén lút thường xuyên hàng ngày,
một số anh em c̣n phải lấy một vài vật dụng riêng như khăn rửa mặt,
hoặc thuốc lào trại phát hàng tháng... để trao đổi cho bọn H́nh Sự
lấy Bánh Ḿ Luộc hoặc Bo Bo để ăn. Dĩ nhiên chỉ có mấy đứa “H́nh Sự
Đầu Nậu” trong tù, mối lái móc ngoặc với anh em để làm việc này, chớ
không phải tất cả bọn H́nh Sự.
“Tiêu chuẩn” ăn hàng tháng của bọn H́nh Sự được quy định là 11 kí lô,
ít hơn phần ăn của Tù Chính trị miền Nam là 12 kí lô. Thế mà ngày
nào chúng cũng có dư phần ăn để đem trao đổi, vào buổi sáng trong
thời gian mọi người chờ đợi ra sân tập họp đi lao động. Chắc là bọn
H́nh Sự phục dịch ngoài Bếp Cán bộ, đến khuya mới trở vào Trại ăn
cắp đem về cung cấp cho bọn “Đầu Nậu” trao đổi.
Tôi thấy anh bạn nằm bên cạnh (Đại tá Nguyễn ngọc Thanh trước
30-4-1975 làm tại Phủ Tổng Thống) cũng có đổi hoài, nên hỏi thăm và
nhờ anh ấy chỉ mối để đổi chiếc khăn mặt mới lấy chiếc bánh ḿ luộc.
Ngay sau khi trao đổi, tôi lanh lẹ lỉnh vào Láng ngủ, dấu chiếc bánh
ḿ xuống dưới đống các bao tải đựng quà anh em cất trong kho, nơi
gần khu có thùng vệ sinh ban đêm. Vừa xong th́ ngoài cửa có tiếng
anh Đội trưởng (Đại tá Lê Đ́nh Luân,
Đơn vị 101 thuộc Pḥng 2 Bộ Tổng Tham Mưu) gọi tôi, và cho
biết là Cán bộ Trực Trại kêu tôi phải tŕnh diện ngay tại Văn pḥng
Ban Thi Đua.
Mọi người nh́n tôi lo lắng, v́ thấy cậu H́nh Sự đổi bánh cho Tôi bị
bắt dẫn lên Văn pḥng Thi Đua, vừa đi vừa bị đánh túi bụi. Riêng tôi
th́ đă chuẩn bị sẵn cách ứng phó, nên tỉnh khô lặng lẽ đi tŕnh diện.
Vừa bước chân vào văn pḥng Thi Đua, Cán bộ Trực chỉ mặt tôi nạt lớn
: “-Thằng này nó vừa đưa cho anh cái ǵ?” tôi nhanh nhẹn trả lời
ngay là không có. Nó thấy tôi cầm chiếc khăn mặt lông định lót thêm
dưới mũ đội cho ấm đầu. Nó năn nỉ xin để cuộn cổ cho ấm v́ lạnh quá.
Tôi vừa mới được gia đ́nh gửi quà cho 2, 3 cái, nên cũng dư, thấy nó
tội nghiệp cũng muốn cho. Nhưng đang c̣n lưỡng lự, v́ sợ vi phạm Quy
luật Trại giam, chưa quyết định. Nó liều giật đại rồi chạy tuốt vô
khu ở của nó, chớ có đổi chác ǵ đâu. Không tin Cán bộ khám người
tôi và đồ đạc nơi ngủ của tôi xem có ǵ không. Nếu có th́ tôi sẽ
chịu “kỷ luật”. Vừa nói tôi vừa thọc tay vào túi quần móc ra nửa
miếng bánh ḿ luộc, và phân bua đây là phần “tiêu chuẩn” sáng của
tôi, mới lănh xong hăy c̣n nguyên chưa kịp ăn.
Cán bộ Trực Trại đấm đá thằng H́nh Sự túi bụi, và hỏi nó : “-Có đúng
vậy không?” May mắn làm sao, nó gật đầu và quỳ xuống đất chắp tay
vập đầu lạy Cán bộ lia lịa, năn nỉ xin tha. Ông ta dơ cao chân đạp
vào ngực nó ngă ngửa ra phiá sau, vừa đúng lúc hồi kẻng tập họp xuất
trại nổi lên. Lập tức ông ấy quay lại xiả mạnh tay vào ngực tôi, và
nói : “-Anh liệu hồn, thôi đi đi.”
Thật là xui xẻo hú hồn hú viá, người ta đổi hoài chẳng sao, ḿnh mới
thử lần đầu tiên đă mắc kẹt ngay. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối,
tôi liều lĩnh lén lút tiếp xúc trao đổi với tụi H́nh Sự. Chuyện
không may đă xẩy đến với tôi, nhưng may mắn không việc ǵ, v́ tôi đă
chuẩn bị đề pḥng trước.
Vào cuối mùa Hè ở vùng này thường có những đợt mưa rào, nước trên
Trời trút xuống xối xả như thác đổ. Mỗi ngày có đến 2, 3 cơn mưa lâu
cỡ vài tiếng đồng hồ mới dứt. Có những đợt mưa kéo dài 3, 4 ngày, và
sau mỗi cơn mưa mặt trời trở lại nắng gắt oi ả hơn, không một ngọn
gió, nóng nực kinh khủng. Tiếp theo những cơn mưa rừng chừng vài
tiếng đồng hồ, bao giờ cũng là một tai họa khủng khiếp. Thác lũ nước
nguồn dồn xuống, bứng cây cuốn theo phá hoại hoa mầu, nâng mực nước
sông lên cao tràn ngập mênh mông. Nước lũ cứ cuồn cuộn vài ngày đêm
như vậy mới lần lần thoát hết. Tất cả những ǵ con người đă khổ công
reo trồng vun bón, ở 2 bên sông chưa tới ngày thâu hoạch, bị nước lũ
cuốn trôi theo ḍng xuống đồng bằng ra biển cả ráo trọi. Chỉ c̣n lại
một lớp phù xa đỏ ngầu, ngập lút đầu gối.
Oái oăm thay, cũng chính vào cái mùa mưa lũ này, các bà vợ từ miền
Nam lẻ tẻ được phép đến Trại “thăm nuôi”, cung cấp tiếp tế thực phẩm
cho Chồng “bồi dưỡng” lấy lại sức khoẻ. Thời gian Vợ Chồng gặp nhau
chỉ được có 15 phút, chuyện gia đ́nh
con cái ra sao trao đổi c̣n
chưa đầy đủ, thời giờ đâu mà tả cảnh khổ cực dọc đường cho các Ông
nghe.
Tuy nhiên cũng có những anh Đội trưởng, những anh Nấu Nước ngoài
“hiện trường lao động” cho Đội, được Quản giáo Đội “chiếu cố” đề
nghị Trưởng trại cho thăm 2 tiếng đồng hồ buổi trưa. Có người c̣n
được ở lại bên vợ 24 giờ đồng hồ, tại Nhà Thăm Nuôi. Không có sự
hiện diện kiểm soát của Cán bộ, Vợ Chồng tha hồ tâm sự nhỏ to đủ mọi
chuyện.
Nhờ thế, những tin tức về các cuộc họp tại Genève, liên quan đến các
phương thức giải quyết vấn đề Tù miền Nam, luôn luôn được cập nhật
hoá, và là đề tài x́ xầm hàng ngày giữa anh em Tù miền Nam trong cả
Trại. Đây là những liều thuốc bổ hữu hiệu nhất, để chữa căn bệnh
thất vọng của anh em đă phải chịu đựng trong suốt mấy năm qua.
ỐC ĐẢO TÂN LẬP-VĨNH PHÚ.
Nắng hạn khô da nứt nẻ đồng,
Mưa nguồn lũ cuốn, khổ bần nông.
Cầm hơi lao động, lưng ca sắn,
Khắc phục bệnh thời, nắm lá xông.
Hung hăn Cai tù hăm hở nạt,
Hững hờ Cải tạo lạnh lùng trông.
Rừng hoang đất sỏi chen vồng miá,
Núi trọc hầm vôi dựng đá chồng.
K5 - Trại Tân Lập - Vĩnh Phú, Hè 1979.
HOME
(C̣n tiếp..) |