Chương
16 LAO ĐỘNG CẢI TẠO, THƯỚC ĐO L̉NG
YÊU NƯỚC
XĂ HỘI CHỦ NGHĨA.
Mọi công tác chỉnh trang K2 (Trại Cây Khế) vừa hoàn tất, Trại lại
phát động đợt “thi đua” mới. “Thi đua lao động cải tạo vượt chỉ tiêu
Nhà Nước quy định”.
Theo lệnh Nhà nước, kể từ năm 1977, Tù phải tham gia sản xuất thật
sự để làm ra tiền, tự nuôi ḿnh, nuôi Cán bộ quản lư Trại, và đóng
góp cho Nhà nước hàng năm mỗi đầu người 1 đồng một ngày. BCH trại
được coi như Ban quản lư một Hợp tác xă. Chỉ có một điều khác Hợp
tác xă là, Trại viên cải tạo hưởng quy chế ăn ở quy định cho Tù, chớ
không phải Hợp tác xă viên.
Lư do đưa ra giải thích là : “-V́ Chiến tranh tàn phá quê hương, nay
toàn Dân phải tham gia tái thiết, nên Cải tạo viên cũng phải đóng
góp công sức ḿnh, vào công việc chung của đất nước như mọi người.
Đây cũng là dịp chứng tỏ ḷng yêu nước, và thực tâm ước muốn cải tạo
để trở thành người công dân Xă hội Chủ nghiă của các Cải tạo viên.”
Nghe tin này, nhiều người nhẹ dạ cả tin “phấn khởi”, cho rằng Chính
sách này giúp ḿnh mau quen với nếp sống của con người Xă hội Chủ
nghiă, sẽ sớm được về đoàn tụ với vợ con. Thời gian lâu lắm, chắc
cũng chỉ trong ṿng 2, 3 năm là cùng. Ông Tướng Sư đoàn Việt cộng ra
đón ḿnh ở Phi trường, hồi mới đặt chân lên đất miền Bắc Xă Hội Chủ
nghiă này, trước đây mấy tháng, cũng đă từng nói như vậy mà!
Thi hành lệnh Nhà nước, Trại khởi hoạch nhiều “phương án hành động”,
làm thước đo mức “tiến bộ” của Cải tạo viên. Mọi người đều tỏ ra “hồ
hởi”, sốt sắng và cố gắng hết sức ḿnh. Tù tha hồ thi đua liên tục
xả thân lao động. Cán bộ “bám sát” thúc đẩy Tù “thi đua đạt năng
xuất lao động” ngày một cao hơn. Với mục đích duy nhất, làm sao Trại
và Tù kiếm ra thật nhiều tiền, để đạt cho bằng được trăm phần trăm
“chỉ tiêu” do Nhà nước quy định. Nếu vượt được mức “chỉ tiêu” quy
định càng cao càng tốt.
Đợt thi đua bắt đầu bằng tập trung đắp đập đất, chắn ngang khe giữa
2 ngọn đồi gần K3 (Trại Cốc), để giữ nước làm hồ nuôi cá. Mặt đập
rộng 50 mét, thân đập cao 30 mét, và chiều dài đập là 50 mét. Đào
đất trên đỉnh đồi bên trái, khênh xuống đổ cho đầy khe.
H́nh như Phân trại K3 là chủ thuê, nên thấy mỗi buổi lao động, Quản
giáo Đội chúng tôi dẫn anh phụ trách nấu nước của Đội vào nhà bếp
K3, lănh một số sắn sống đem ra luộc tại hiện trường, để phát cho
anh em. Mỗi người được 1 khúc bằng cổ tay, dài 20 phân, vào lúc nghỉ
tại chỗ ăn bữa trưa hàng ngày. Đây là tăng cường “bồi dưỡng” của chủ
thuê cho Tù, y như hồi đi làm thuê cho Hợp Tác Xă địa phương.
Các Đội tham dự công tác tại công trường đắp đập, được phân chia như
sau : 1 nhóm cuốc đất trên đỉnh đồi khiêng xuống đổ dưới khe, 1 nhóm
ban đất cho bằng phẳng tại mặt đập, 1 nhóm đầm nện đất, nèn cho mặt
đập và sườn đập thật mịn và cứng chắc.
Đội chúng tôi thuộc nhóm đào đất nơi đỉnh đồi, khiêng xuống đổ lấp
khe sâu giữa 2 quả đồi. Quản giáo Đội quy định, mỗi Tổ 10 người phải
đào và khiêng đất xuống đổ vào đập mỗi ngày 5 mét khối. V́ thế, anh
em Tổ của Tôi phải chia thành : 3 toán khiêng đất hết 6 người, và 1
toán 4 người vừa cuốc vừa xúc đất vào “ki” (cáng khiêng) cho các
toán khiêng đi đổ xuống khe.
Chúng tôi thoả thuận luân phiên nhau, hôm nay cuốc xúc đất, th́ hôm
sau đổi lại đi khiêng đất, cho nó công bằng. Cũng như để mọi người,
có dịp rút kinh nghiệm bản thân về các công tác khác nhau, mà “sáng
tạo” ra phương pháp thực hiện cho thật nhanh. “Lao động là sáng tạo”,
Cách mạng đă nghiên cứu xác định như vậy trong các bài học cải tạo
tư tưởng, cần phải áp dụng cho Cán bộ nhận thấy là ḿnh đă “thấm
nhuần”, và “nắm được vững vàng sâu sắc” những ǵ đă học.
Trong suốt thời gian đắp đập, mọi người phải làm thông tầm (kể cả
Cán bộ cảnh vệ và Quản giáo). Chỉ được nghỉ tại chỗ, 30 phút lúc
giữa trưa để dùng bữa. Ăn xong là phải “tranh thủ” tiếp tục làm ngay.
Đến chiều tối, khi nào đạt “chỉ tiêu” quy định trong ngày, báo cáo
Quản giáo Đội đến kiểm tra chấp nhận đúng, Đội mới được ngưng để tập
họp ra về.
Đặc biệt trong thời gian lao động vất vả này, Trại được cung cấp bột
ḿ thay cho sắn khô hoặc bắp khô. Do đó, buổi sáng mỗi người được
lănh một nửa ca cháo bột ḿ, sền sệt như loại bột gạo người ta
thường khuậy chín cho trẻ con ăn. Bữa trưa và bữa tối, được mỗi bữa
một chiếc bánh bột ḿ nhồi nước đổ khuôn tṛn luộc chín, đường kính
10 phân, bề dầy 1 phân. Thức ăn th́ mỗi bữa đôi ba cọng rau muống
bung nước muối.
Thời gian 30 phút nghỉ ăn trưa được coi là dài. V́ sau khi nhơi
thong thả từng mẩu nhỏ của chiếc bánh ḿ luộc và khúc sắn, cho
nhuyễn nhuần với nước miếng trước khi nuốt vào bụng. Cũng c̣n dư
được ít nhất là 15 phút để nằm dài trên mặt đất chợp mắt xả hơi,
trước khi bắt tay vào tiếp tục lao động trở lại.
Số giờ lao động hàng ngày quy định là 8 tiếng đồng hồ. Nhưng bao giờ
anh em cũng phải làm nhiều hơn, mới đạt đủ “chỉ tiêu” quy định. V́
thế, chỉ trong ṿng có 1 tuần lễ, ai nấy đều hốc hác xạm xọp đi ít
nhất cũng 5 kílô. Nhưng sức chịu đựng vất vả, được tôi luyện dẻo dai
hơn, và thuần nhuyễn như một cái máy chạy tự động không cần ai bấm
nút.
Hằng đêm, sau giờ “kiểm điểm, phê và tự phê” xong, anh nào cũng lăn
đùng ra ngủ say như chết. Nhờ vậy mà ngày hôm sau mới có sức chịu
đựng tiếp. Nếu không ngủ được, phải thức trắng đêm như hồi mới ra,
chắc là bây giờ chẳng c̣n sống trên Thế gian mà ngồi viết Hồi kư.
Ngày thứ 2 đi làm đập, toán của Tôi đến phiên đào và xúc đất vào
“ki” cho các toán khác khiêng. Lúc phát quang các bụi rậm trước khi
đào đất, Tôi may mắn gặp một ổ 4 chú Cúi con (trông giống như sóc,
nhưng mặt mơm giống như lợn, lông đen, đuôi ngắn). Mỗi chú Cúi to
bằng nắm tay. Tôi đưa cho anh Đại tá Dương Hiếu Nghiă, cùng một Tổ
với Tôi, biến chế làm món Cúi bỏ ḷ trong lon Gô. Để 2 anh em chia
nhau, thưởng thức lộc của Chúa Sơn Lâm “bồi dưỡng” cho Tù nghèo. Tôi
tự làm lấy cũng được, nhưng v́ đồ tiếp tế của Tôi đă hết, không c̣n
gia vị để ngâm ướp, nên phải đưa cho anh Nghiă lo toan.
Sau này, qua 5 trại khác nhau trong suốt 13 năm cải tạo, lúc nào anh
Nghiă và Tôi cũng ở chung một Đội. Chỉ có thời gian ngắn khoảng 1
năm ở K5 Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, anh Nghiă ra làm Đội trưởng Đội
Gạch, gồm toàn các Linh mục, Thượng tọa, Đại đức Tuyên úy QLVNCH (cũng
phải đi cải tạo như chúng tôi) th́ 2 anh em chúng tôi mới không ở
chung Đội. Tới tháng 1 năm 1980, bị chuyển vào trại Thanh Phong,
Thanh Hoá, anh Nghĩa và Tôi lại được “biên chế “ vào chung một Đội.
Cuối tháng 4 năm 1982, chúng tôi cùng được đưa trở về Nam một lượt.
Sau cùng, anh Nghĩa được tha trước Tôi 6 tháng, vào dịp 2 tháng 9
năm 1987, kỷ niệm Lễ Độc Lập của Cộng sản Việt Nam.
Những ngày nghỉ lao động trong đợt “thi đua muà Xuân 1977”, Ban chỉ
huy Phân trại K2 cho phép anh em nấu nướng biến chế thực phẩm “bồi
dưỡng”, không cấm đoán như hồi mới ra. Nhờ thế, các món thực phẩm
khô, do gia đ́nh gửi lén trong các bưu kiện tiếp tế quần áo lạnh,
được Tù đem ra trổ tài biến chế. Không theo sách vở nào cả, thế mà
mùi vị thức ăn biến chế xông ngào ngạt thơm phức cả một vùng, tưởng
như đang đứng trong khu phố tiệm ăn Tầu Chợ Lớn vậy. Chỉ tội cho các
bạn không được tiếp tế, phải vào xạp nằm chùm chăn kín mít, t́m
khuây khoả trong giấc ngủ.
Từ khi “đợt thi đua mùa Xuân 1977” được “phát động”, tất cả Tù và
Cán bộ đều bận rộn. Ngày nào cũng xuất trại lao động rất sớm, và đi
đến tối mịt mới trở về. Nhóm đi đắp hồ cá K3. Nhóm đi hạ bồ đề, trên
sườn núi cao gần ngay bên Bệnh xá Liên trại, thả xuống đường xếp
thành đống, để Công ty khai thác Lâm sản đến đo, tính tiền công theo
thước khối, rồi chở đi. Nhóm đi làm thuê cho các Hợp Tác Xă, trồng
hoa mầu …
Sau khi đắp đập hồ cá K3 xong, Đội chúng tôi được đưa đi đắp đập
thuê cho một Hợp Tác Xă, ở xa trại khoảng hơn 10 cây số, về phiá Tây.
Ra đi từ sáng sớm, trước khi kiểng tập họp các Đội xuất trại lao
động. Đến chiều, trở về đến trại trời đă nhá nhem, mọi người ở nhà
đă nghỉ và dùng bữa tối xong xuôi.
Gần Tết tại vùng này, sáng nào sương cũng mịt mù đến 10 giờ mới tan,
nên lúc ra đi phải dùng đường cái lớn, qua BCH Liên trại 1, qua K ḷ
gạch, qua một công trường làm đường, rồi rẽ vào con đường nhỏ ngoằn
ngoèo theo các sườn đồi, lên một vùng b́nh nguyên của Hợp tác xă (không
biết tên) có khoảng vài chục căn nhà. Từ trại đến nơi lao động, lúc
nào chúng tôi cũng phải đi nhanh như chạy Marathon, thế mà thời gian
di chuyển tính ra cũng mất khoảng 2 tiếng đồng hồ.
Buổi chiều, lao động xong, chúng tôi không trở về trại theo đường
cái lớn, mà đi theo một con đường ṃn, tắt băng rừng. Phải leo lên
tụt xuống qua 3, 4 đỉnh đèo, qua đập nước K3 (Trại Cốc), rồi thêm
một đoạn sườn núi chừng 1 cây số nữa mới về tới K2 (Trại Cây Khế)
của chúng tôi.
Trong chuyến đi làm xa này, một ấn tượng vô cùng chua chát, đă hằn
sâu vào bộ năo của chúng tôi không bao giờ quên được, sau khi nh́n
thấy tận mắt cái quang cảnh Công trường làm đường, và nơi ăn chốn ở
của những Công dân Xă hội chủ nghiă miền cao nguyên Hoàng Liên Sơn.
Theo lời rêu rao của Bác Hồ, của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà Nước
Xă hội Chủ nghiă th́, những người vô sản lao động thuộc giai cấp
lănh đạo Cách mạng kiến thiết đất nước. Thế mà hoàn cảnh sống “thực
tế” của họ, trông thấy rơ ràng, so với cảnh sống của vợ con các Chủ
nhiệm Hợp Tác Xă, hoặc Cán bộ Cộng sản lănh đạo các cấp Trung ương,
Địa phương, khác xa nhau một trời một vực.
Giá trị cuộc sống của giới lao động, công dân trung kiên theo Xă hội
Chủ nghiă, từ hồi Cách mạng mùa Thu 1945 thành công đến nay, c̣n như
vậy. Huống chi ḿnh, đă từng cầm súng chống đối chế độ, đang phải
cải tạo để được trở thành công dân Xă hội Chủ nghiă, tương lai sẽ
như thế nào?
Một tấm bảng to tướng, ghi chữ “Công trường làm đường, Công ty…”
được dựng ngay bên đường, mà chỉ thấy khoảng vài ba chục người, dùng
cuốc, xẻng, xà beng, búa tạ, đầm cầm tay, “ki” làm bằng “chổm”
khiêng đá, đất, cuốc ở sườn núi ra, để h́ hục giặm vá, lấp các lỗ ổ
gà xâu hoắm trên mặt đường. Trông chẳng khác nào đám phu làm đường
miền thượng du, thời Thực dân Pháp đô hộ mấy chục năm về trước, mà
Tôi đă từng thấy ở miền Lạng Sơn, Thất Khê.
Nhân công gồm toàn người lớn tuổi, và nam nữ thanh thiếu niên trạc
15 đến 17. Người nào trông cũng phong sương, đen xạm, làm việc không
ngơi tay, dưới sự ḥ hét thúc giục “thi đua” của Giám đốc Công
trường và các Trưởng toán.
Gần ngay nơi Công trường có 2 dẫy nhà ở, một khu nhà bếp, và dẫy nhà
ăn tập thể. Tất cả các nhà đều lợp mái tôn, vách phên, sườn khung
nhà bằng gỗ. Trong khi người lớn đi lao động, mấy đứa trẻ trên dưới
10 tuổi, áo quần rách rưới, lem luốc bẩn thỉu, mắt mũi đầy ghèn, đùa
giỡn bên lề đường, trước sân nhà ăn.
Khi đi ngang, trong số anh em Tù chúng tôi có người lên tiếng thân
thiện hỏi : “-Các cháu không đi học à ?” Lập tức có em lớn hơn cả
trả lời ngay, không cần suy nghĩ : “-Ông nội của chúng mày, chớ cháu
chắt ǵ, đồ ngụy bán nước.”
Thật ngỡ ngàng. Từ đó về sau, anh em rút kinh nghiệm, không bao giờ
c̣n dại dột t́m cách làm quen xă giao với quần chúng địa phương nữa.
Đến nơi làm thuê, mới biết công việc của chúng tôi là phá đất đỉnh
đồi, ban ra, để nâng cao mặt đập đă có sẵn từ trước, nèn đập cho
thật chắc. Đập dài cả trăm mét, mặt đập rộng 50 mét, sườn đập phiá
ngoài, từ mặt đến chân khe ước chừng cũng khoảng 100 mét. Đây là đập
của hồ thủy lợi, vừa dùng tích trữ nước trong mùa mưa, để vào mùa
nắng khô cạn có nước tưới ruộng trong b́nh nguyên, vừa lợi dụng thả
cá “làm kinh tế” cho Hợp Tác Xă.
Ngoài Đội chúng tôi từ K2 (Trại Cây Khế) đến, thấy c̣n nhiều Đội
khác ở trại nào không rơ, đang làm ở đây trước chúng tôi. Họ lấy đất
đỉnh đồi ở đầu đập bên phiá Bắc, khiêng ra mặt đập, ban, nèn, đầm
mặt và sườn đập cho chắc. Đội chúng tôi đến sau, được giao việc phạt
sườn đồi ở đầu phiá Nam của đập, tạo một mặt bằng thật rộng, để sau
này dựng cơ sở ǵ đó không biết.
Đất đồi nơi chúng tôi phá vỡ ra, phải dùng “xe ban” hất trôi xuống
chân đập. “Chỉ tiêu” quy định mỗi người phải làm 1 mét khối đất một
ngày, tức là gấp đôi “chỉ tiêu” làm tại đập hồ cá K3 (Trại Cốc).
Sau khi Cán bộ quản giáo và các anh Tổ trưởng đi đo đất, đóng cọc
mốc diện tích riêng cho từng Tổ theo “chỉ tiêu” quy định xong. Các
Tổ bắt đầu “thi đua khởi công”. Tổ nào xong trước được nghỉ sớm,
ngồi chờ các Tổ khác làm xong mới cùng tập họp, rời “hiện trường lao
động” trở về Trại.
Với chỉ tiêu nặng như vậy, chả có Tổ nào có cơ may nghỉ sớm cả. Ngày
nào cũng phải làm khoảng hơn 10 tiếng đồng hồ mới xong. Vừa đúng lúc
mặt trời đang tụt xuống, ngang đỉnh dẫy núi phiá Tây của b́nh nguyên.
Để “triển khai thi công”, Tổ chúng tôi phải chia thành 3 toán làm
việc : 2 toán kéo “xe ban” hết 6 người, toán 4 người c̣n lại hiệp
lực vừa phá đất, vừa gom vun thành đống cho “xe ban” kéo đi.
Nghe chữ “xe ban”, ai cũng tưởng là một loại cơ giới nào đặc biệt
lắm. Thực ra nó chỉ là một miếng ván dầy 5 phân, dài 1 mét rưỡi, mặt
rộng 50 phân, có một khung càng gồm 3 thanh gỗ tṛn, đóng vào khoảng
gần 2 đầu miếng ván, và 2 sợi dây kéo. H́nh dáng “xe ban” trông y
như chiếc bừa, nhà nông vẫn thường dùng để làm tơi đất, sau khi cầy
lật thành từng hàng dài trên ruộng.
Xử dụng “xe ban”, có thể di chuyển được lượng đất nhiều và nhanh hơn
dùng “ki” khiêng, nhưng phải cần tới 3 người. Một người cầm càng
điều khiển, 2 người cầm dây kéo dài khoảng 3 mét cột ở 2 đầu miếng
ván, y như dùng 2 con trâu keo 1 cái bừa vậy. Người điều khiển phải
biết kỹ thuật cầm càng và phụ đẩy, xe mới trượt đi suông sẻ, nhẹ
nhàng. Nếu không, xe sẽ khựng lại không kéo đất trơn đi, mà người
cầm càng c̣n bị sức kéo, lôi cả người lẫn xe ngă chúi về phiá trước,
rất nguy hiểm.
Ngày nào, Tôi cũng bị anh em trong toán, đùn cho việc lái “xe ban”.
Qua kinh nghiệm học được, muốn “xe ban” chạy được suông sẻ, người
cầm càng phải đứng ở khoảng đúng giữa “xe ban”. Chân trái, đưa ra
phiá trước, để phần 3 ḷng bàn chân lên cạnh trên của miếng gỗ thân
xe. Chân phải, đứng trên đất soạc ra phiá sau, làm sao cho sức nặng
của toàn thân, được chia đều trên cả 2 chân. Hai tay dang rộng nắm
chặt đà ngang càng xe, và giữ cho càng xe nghiêng khoảng 30 độ góc,
hướng vào ngang rốn của ḿnh. Khi hô 2 bạn kéo tới, ḿnh phải vừa đè
càng cho thân xe sát mặt đất, vừa phụ đẩy, xe sẽ chạy nhẹ nhàng và
rất nhanh. Sơ ư là cả 3 cùng lăn tuột theo sườn đập đến chân khe
luôn.
Kinh nghiệm phá vỡ đất cho nhanh, chúng tôi được Trung úy Khảm Quản
giáo Đội tiếp tay hướng dẫn thật tận t́nh. Ông ta vốn người lanh lợi,
tháo vát, và có chút “t́nh người” đối với anh em trong Đội. Qua
những lúc chuyện văn trong giờ giải lao, ông ta thường khoe trướùc
kia đă từng nhiều lần tham dự các cuộc “thi đua lao động”, do các
Đại đơn vị Quân đội Nhân dân tổ chức, và lần nào cũng đoạt giải “Anh
hùng lao động”.
Sở dĩ chúng tôi phá vỡ đất được nhanh, là nhờ phần sườn đồi nơi
chúng tôi làm, đă được vạt thẳng đứng từ trước, cao khoảng 4 mét.
Nên trước nhất, phải cuốc khoét đoạn dưới chân sát mặt đập, sâu vào
khoảng 70 phân, cao 1 mét. Sau đó lên phiá trên, cuốc một rănh dài
sâu rộng chừng 3, 4 chục phân, và những lỗ xâu cách nhau 50 phân,
rồi dùng xà beng bẩy mạnh là từng mảng đất lớn sẽ lở ra tụt xuống.
Thật rơ ràng “trăm hay không bằng tay quen” là thế. Nhưng “thực tế”
bắt tay vào việc, mới thấy chẳng đơn giản như vậy đâu. Lẫn trong đất
núi c̣n gặp những tảng đá to tướng, phải dùng búa tạ đục đẽo phá cho
nó vỡ lần lần ra, cũng trần ai lắm. V́ thế mà chẳng ngày nào hy vọng
làm ít hơn 10 tiếng đồng hồ cả.
Muốn cố gắng lột bỏ cái áo “Giai cấp Tư sản” của ḿnh do Cộng sản
gán cho, bằng “Lao động Cải tạo Tư tưởng” để trở thành người “Công
dân Xă hội chủ nghiă”, thật không đơn giản dễ dàng ǵ.
Cái giá phải trả luôn luôn bằng máu, mồ hôi, và nước mắt, không chỉ
của riêng bản thân ḿnh trong các trại cải tạo, mà c̣n phải cộng
chung của cả Vợ Con ḿnh tại địa phương đang cư ngụ nữa.
KHOAN HỒNG NHÂN ĐẠO ?
Xót xa t́nh nghiă đồng bào,
Tha không xử chết, cho vào tập trung.
Học gương lao động anh hùng,
Tập tành đắp đập, phá rừng, làm nông.
Bao giờ thành thạo reo trồng,
Chăn nuôi,canh tác tinh thông th́ về.
Xung vào Hợp tác xă quê,
Sống theo đời mới đủ nghề làm ăn.
Vợ, Con, khỏi phải băn khoăn,
Tội ai nấy chịu, chẳng can hệ ǵ.
Trẻ con vẫn học, vẫn thi,
Vợ th́ lao động, hưởng tùy khả năng.
Thoạt nghe phấn khởi tinh thần,
Định tâm cải tạo bản thân đêm ngày.
Rêu rao chính sách thật hay,
Đến khi thực hiện đọa đầy dă man.
Gớm thay bè lũ bạo tàn,
Nỏ mồm lừa bịp thế gian nhân quần.
K2 (Trại Cây Khế) Liên Trại 1, tháng 1 năm 1977.
HOME
(C̣n tiếp..) |