ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN       HPH1       HPH2       HPH3       HPH4       HPH5

 

 

ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

PHẦN  HAI: NHÂN  HỌC THIÊNG  LIÊNG.... 1

A.  KHUYNH  CHIỀU    KHẢ   NĂNG  CỦA  CON  NGƯỜI 1

1). Khuynh chiều của thân xác. 1

2). Nét tuyệt vời của con người: tự do siêu vượt 2

B.  CON  NGƯỜI: TINH  THẦN  NHẬP  THỂ.. 4

1). Con người chỉ tự do trong hành động. 4

2). Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo nó (Yn.6,44) 4

C.  CON  ĐƯỜNG  THIÊNG  LIÊNG (TU ĐỨC) 5

 

PHẦN  HAI:
NHÂN  HỌC THIÊNG  LIÊNG

 

            Để có thể tiến bộ hơn về đời sống thiêng liêng, và đặc biệt nếu để giúp người khác về đời sống thiêng liêng, chúng ta cần hiểu biết về con người một cách sâu xa.

            V́ thế, chúng ta sẽ lần lượt t́m hiểu về:
khuynh chiều và khả năng siêu vượt của con người,
con người xét như tinh thần nhập thể,
con đường để nên thánh.

 

A.  KHUYNH  CHIỀU    KHẢ   NĂNG  CỦA  CON  NGƯỜI

            Đức Yêsu nói với Phêrô: “Hăy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn thử thách, tâm thần tuy sẵn sàng nhưng xác thịt th́ yếu nhược” (Mc.14,38). Thánh Phaolô cũng nói: “Sự lành tôi muốn, tôi không làm; c̣n sự dữ tôi không muốn tôi lại làm” (Rm.7,19).

            Con người là thân xác và tinh thần. Con người có khuynh chiều của thân xác và khuynh chiều của tinh thần. Có thể nói khi nào c̣n là người tại thế với thân xác, chúng ta c̣n có những khuynh chiều của thân xác  mà chúng ta cần vượt qua trong mức độ nó có trái với ơn gọi con người hay không.

1). Khuynh chiều của thân xác

            Sinh vật, và cụ thể những con vật mà chúng ta thường thấy, sống theo bản năng. Đói cần phải ăn! Con vật không thể không ăn nếu có đồ ăn trước mắt, khi nó đói. Bản năng sinh tồn: “đừng đánh chó ở đường cùng”, hăy cho nó một lối thoát, v́ nếu không, nó sẽ cắn. Bản năng truyền giống: con vật không thể cưỡng lại được khuynh chiều tự nhiên: khi tới thời kỳ, nó phải thỏa măn  đ̣i hỏi để truyền sinh.

            V́ con người có thân xác, nên con người cũng cảm thấy những khuynh chiều "tự nhiên" nơi chính con người ḿnh như những sinh vật hạ đẳng khác; nhưng phải lưu ư ngay kẻo hiểu lầm: con người không chỉ có thân xác, nhưng con người c̣n có khả năng vượt trên khuynh chiều "tự nhiên" của xác thịt nữa.

a). Thân xác

            Nơi con người vẫn có những khuynh chiều thuộc thân xác như các sinh vật hạ đẳng khác, tuy dù những khuynh chiều này được biểu lộ tinh tế hơn .

            Con người vẫn cảm thấy nơi ḿnh khuynh hướng ham mê ăn uống, ham mê t́m kiếm tiền tài sắc dục, ham mê công danh địa vị; và thực tế, có những người v́ ham mê một ít tiền bạc, đă dám giết người cướp của; có người đă sắp xếp mưu đồ hạ bệ người khác, nhằm chiếm đoạt địa vị danh vọng...

b). Trí tưởng tượng

            Trí tưởng tượng là một khả năng của con người, được coi là thành phần của thân xác, nhưng nó không hoàn toàn tùy thuộc ư muốn con người chúng ta.

            Những h́nh ảnh mà giác quan đă cảm thụ,  được trí nhớ lưu giữ lại; rồi với khả năng liên tưởng của lư trí, những h́nh ảnh được tŕnh bày trong tâm trí theo những khuynh chiều của con người chúng ta, không chỉ theo những khuynh chiều của thân xác mà c̣n theo cả những khuynh chiều của tinh thần nữa.

            Khuynh chiều của thân xác đôi khi được diễn tả qua trí tưởng tượng phong phú đến mức độ chúng ta không ngờ đến!

            Trí tưởng tượng thuộc con người, nhưng không hoàn toàn "là" chúng ta. Những h́nh ảnh của trí tưởng tượng gợi lên, có thể "cám dỗ" chúng ta, tuy vậy con người là một chủ vị tự do, con người có thể thuận theo hay từ khước những điều đó.

c). Lư trí  “suy luận”

            Con người c̣n có lư trí, có khả năng trừu xuất, nhận ra định luật tổng quát nơi những cái đặc thù, nhận ra những định luật chi phối thế giới tự nhiên. Các khoa học tự nhiên đặt nền tảng dựa vào lư trí “tự nhiên” này.

            Ở mức độ lư trí ‘luận lư’ này, con người thông minh hơn con vật, nhưng điều này cũng không làm cho “con người là người” đúng nghĩa. Con người với lư trí, c̣n có một khả năng khác đặc biệt và trổi vượt trên con vật, mà con vật không thể có được, chính điều đó làm cho con người trở nên người, nên tinh thần, nên thánh. Đó là khả năng "siêu vượt" của con người với lư trí "tự do".

            Thật ra không phải có hai lư trí, một “tự nhiên” và một “không tự nhiên”, nhưng phân biệt như vậy, là để thấy rơ khả năng của lư trí con người thôi. Khả năng lư trí “không tự nhiên”, tức siêu vượt, sẽ được đề cập đến sau. 

d). Tự do

            Con người có tự do, tùy ḿnh chọn điều này hay điều kia theo sở thích. Ăn hay không ăn, ngủ hay không ngủ, tùy ḿnh thích hay không thích, tự do[1] ḿnh muốn.

            Nếu chỉ dừng ở b́nh diện trên, không đặt tiêu chuẩn tốt xấu, th́ ư muốn tự do ở đây chỉ được hiểu là khả năng chọn lựa của con người. Nhưng con người c̣n có khả năng đặc trưng: lựa chọn theo tiêu chuẩn thiện ác, tốt xấu. Con người xét như một hữu thể nhân linh, sẽ lựa chọn điều này hay điều kia dựa vào tiêu chuẩn "điều đó có tốt đối với tôi hay không".

 

2). Nét tuyệt vời của con người: tự do siêu vượt

            Cái làm cho con người trổi vượt và hoàn toàn khác với con vật, đó là khả năng siêu vượt của con người.

             Con người là một chủ vị có khả năng siêu vượt, và khả năng siêu vượt này bao hàm con người có lư trí và ư chí tự do.

a). Lư trí  “tự do”

            Thường xưa nay người ta vẫn cho rằng “không có vấn đề lư trí tự do hay không tự do”. Điều ǵ đúng là đúng, điều ǵ sai là sai, lư trí không thể phán đoán một điều đúng là sai hoặc điều sai là đúng được. Giác quan có thể sai lầm như khi con người bị ảo giác (trường hợp người đi trong sa mạc dễ mắc phải: mắt thấy có nước nhưng khi tới gần mới biết ḿnh lầm), nhưng lư trí luôn luôn phán đoán đúng và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ  cái ǵ! 2+2=4 là một thí dụ điển h́nh.

            Lư trí thường phán đoán đúng trong trường hợp “điều đó” không liên hệ tới chủ thể phán đoán, nhưng nếu “điều đó” có liên quan mật thiết đến chủ thể, th́ lư trí vẫn có thể bị ảnh hưởng hoặc bị chi phối bởi ư muốn của chủ thể. Trường hợp này lư trí là công cụ của chủ thể, t́m những lư lẽ để biện minh cho ư muốn của chủ thể. Chẳng hạn một người muốn chạy tội, không dám nhận sự thật về con người của ḿnh, t́m cách đổ tội cho người khác hoặc đưa ra những lư do “ngụy biện” cho hành vi của ḿnh. Trường hợp này bên giáo lư nhà Phật cho rằng ḷng dục đă làm con người “vô minh”.

            Đứng trước lời “vô ngôn” của vũ trụ:
“Đây không phải lời cũng không phải tiếng, để mà con người có thể cho rằng âm thanh chúng không thể lọt tai; nhưng thực sự tiếng chúng (dù không nghe được) đă vang đến tận cùng trái đất, và lời chúng (dù không thành tiếng) truyền ra khắp cơi địa cầu” (Tv.19[18],4-5),
 con người với lư trí của ḿnh, đúng ra đă phải nhận biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ trụ này. Nếu ai đó đă không nhận biết Thiên Chúa hiện hữu khi nh́n vũ trụ hữu h́nh tuyệt đẹp này, th́ e rằng họ chưa tự do thực, và lư trí của họ chưa vượt lên trên tạo vật, vẫn c̣n dừng lại ở b́nh diện sự vật và chưa trở thành tinh thần đúng nghĩa.

            Con người và lư trí chỉ thực sự “tự do”, khi vượt qua thực tại vật chất khả giác để vươn tới thực tại siêu vượt là Thiên Chúa vô h́nh.

b). Lương tâm

            Con người có lương tâm. Đó cũng là nét đặc trưng của con người. Lương tâm là tiếng Thiên Chúa nói nơi cung ḷng con người, là lư trí “tự do”, là lư trí vượt qua tạo vật để vươn tới Thiên Chúa.

            Thiên Chúa dùng lương tâm để thức tỉnh con người, để cảnh cáo và nhắc nhở con người trở về với Thiên Chúa khi con người lạc xa Thiên Chúa bằng những chọn lựa tội lỗi.

            Lương tâm b́nh an là dấu chỉ cho thấy con người sống  trong tương quan tốt với Thiên Chúa. Tuy vậy cũng nên lưu ư trường hợp một người đă chai ĺ và không nghe được tiếng nói của lương tâm cách rơ ràng. Trong trường hợp này, tuy dù lương tâm “khiển trách” nhưng họ vẫn cho rằng “lương tâm không hề trách cứ họ điều ǵ”.

            Trong đời sống thiêng liêng, khi cảm thấy mất b́nh an, người ta cần t́m hiểu để thấy rơ chỗ nào sai lệch để điều  chỉnh lại đời sống của ḿnh.

c). Thuận t́nh “tự do” : Yêu

            Con người, và chỉ có hữu thể ngôi vị mới biết yêu. Yêu là nét đặc trưng của một ngôi vị.

            Con vật không biết yêu, nó sống theo bản năng. Ngay cả khi một con vật nuôi con, bảo vệ con, th́ cũng là sống theo bản năng của nó. Một con người cũng có thể chỉ sống theo bản năng chứ không sống yêu thương.

            Yêu là sống theo lư trí “tự do” chứ không sống theo cảm tính; tuy vậy, yêu không loại trừ cảm tính. Vượt lên trên, không sống theo bản năng, nhưng sống theo lư trí “tự do”, đó là yêu. Chính v́ vậy, không trả thù nhưng nhường nhịn, nhường phần hơn cho người khác, hy sinh cho người khác đến độ quên chính bản thân ḿnh, đó là yêu.


 

B.  CON  NGƯỜI: TINH  THẦN  NHẬP  THỂ

            Con người là tinh thần, nhưng con người có thân xác. Các thiên thần cũng là tinh thần, nhưng thiên thần không có thân xác như con người.

            Con người là tinh thần, nhưng chỉ là tinh thần qua thân xác. Nghĩa là, nhờ thân xác và qua thân xác mà con người là tinh thần. Nói bằng ngôn từ của cha K.Rahner, “con người là tinh thần nhập thể”.

            Là tinh thần, nghĩa là, con người không chỉ dừng lại ở b́nh diện “sự vật”, nhưng con người có khả năng vượt trên sự vật để vươn tới Tuyệt Đối. Một điều cần lưu ư: con người hoàn toàn tự do để siêu vượt; nghĩa là, siêu vượt hay không siêu vượt, là TỰ DO của ḿnh.

1). Con người chỉ tự do trong hành động

            Con người là hữu thể tự do, có thể hành động theo sở thích. Điều này ai trong chúng ta cũng nhận thấy trong chính kinh nghiệm sống của ḿnh.

a). Con người không tự do “tuyệt đối”

            Tuy con người là hữu vị tự do, nhưng ai trong chúng ta cũng biết, con người cần ăn để sống.

            Con người không thể sống nếu không ăn! Như vậy, phải chăng con người không có tự do? Không! Con người có tự do, nhưng con người chỉ tự do trong giới hạn của ḿnh, con người không có tự do tuyệt đối để rồi “không cần ăn cũng sống”! Con người “tự do” trong và qua hành động của ḿnh.

            Con người, nếu đ̣i cho ḿnh có tự do tuyệt đối, th́ trong hành vi "yêu sách và không chấp nhận thân phận con người" đó, cho thấy họ không là người “tự do đích thực”.

b). Tự do đích thực

            ”Tự do đích thực” không có nghĩa là muốn làm ǵ th́ làm theo “ư thích xác thịt” của ḿnh.

            Con người tự do đích thực khi sống theo “ơn gọi làm người”, tức là khi con người sống theo điều lư trí thấy là đúng, theo điều tốt cho ḿnh và cho tha nhân, theo ư định của Thiên Chúa về ḿnh và về con người, theo tiêu chuẩn là ḿnh “với Thiên Chúa là chuẩn mực”.

            Con người sống theo ḿnh “với Thiên Chúa là chuẩn mực”, là con người luôn đặt Thiên Chúa lên trên hết, coi anh em là thực tại có giá trị như ḿnh, trong hành động luôn tôn trọng phẩm giá con người ḿnh và tha nhân, mong muốn cho tha nhân được hạnh phúc như chính ḿnh.

            Con người thực sự tự do khi yêu thương chính ḿnh và tha nhân.

c). Qua chọn lựa và hành động, con người thành  thần hay thành vật, thành thánh hay thành qủy

            Ăn, uống, truyền sinh,..., là những hành vi mà con vật b́nh thường nào cũng có. Con người cũng có những hành vi và sinh hoạt như vậy. Tuy nhiên, con người là hữu thể tự do, không hiểu theo nghĩa là không phải ăn phải uống,..., nhưng theo nghĩa: khi con người làm những điều đó hay điều khác, con người hành động theo mục đích và tiêu chuẩn nào, con người t́m kiếm điều ǵ khi làm như vậy, con người làm những điều đó có nhằm ích lợi đích thực cho ḿnh và cho tha nhân hay không, con người có t́m kiếm hạnh phúc đích thực cho ḿnh và cho tha nhân không!           

            Con người chỉ tự do đích thực trong hành động và bằng hành vi hoạt động của ḿnh, nghĩa là, bằng chính đời sống cụ thể. Qua chính hành vi hoạt động trong đời sống thường ngày, mà một người trở nên người tự do đích thực hay thành người nô lệ những tham muốn ích kỷ của ḿnh.

2). Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo nó (Yn.6,44)

            Con người được sinh ra để được tự do đích thực, để trở nên thần linh qua hành vi hoạt động của ḿnh. Thế nhưng, con người trong lịch sử đă không sống theo ơn gọi của ḿnh, đă không siêu vượt lên khỏi vật chất, mà đă làm nô lệ tạo vật.

a). Kinh nghiệm bất lực dù vẫn ư thức ḿnh tự do

            “Điều tôi muốn (tôi biết là đúng) tôi không làm, c̣n điều tôi không muốn (tôi biết là không đúng) tôi lại làm” (Rm.7,19).

            “Con người cảm nghiệm ḿnh bất lực không làm được điều ḿnh thấy là đúng”! Ai có kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng chắc đă nhận biết điều này. Tuy vậy, mỗi người đều nhận biết ḿnh vẫn tự do khi làm điều ḿnh biết là không đúng.

            Siêu vượt, sống tốt lành thánh thiện, không thể là kết qủa do nỗ lực riêng của con người "muốn độc lập với Thiên Chúa”. Như vậy th́ sao? Phải chăng có mâu thuẫn khi khẳng định con người "tự do", nghĩa là con người được mời gọi siêu vượt để trở nên tự do đích thực, để vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại khẳng định con người cảm thấy ḿnh bất lực trong nỗ lực làm điều thiện hảo? Những khẳng định trên không hề mâu thuẫn nhau!

b). Thiên Chúa yêu tôi, Ngài lôi kéo tôi đến với Ngài

            Trong vườn địa đàng xưa, Eva muốn trở nên thần linh một cách độc lập với Thiên Chúa, và hậu qủa là con người phải chết. Cái chết thể lư là biểu hiệu cái chết tinh thần, khi con người không thông hiệp với Nguồn Sống là chính Thiên Chúa (Stk.3, 1tt).

            Thế nhưng ngay từ thời đó, Thiên Chúa đă chủ động đi t́m và đối thoại với con người "từ chối t́nh yêu của Ngài”(Stk.3,9tt). Sở dĩ như vậy, v́ Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài yêu chúng ta ngay khi chúng ta c̣n là tội nhân (Rm.5,8). Ngài luôn yêu thương con người và t́m mọi cách lôi kéo con người trở về với Ngài.

            Không khi nào con người có thể độc lập tuyệt đối với Thiên Chúa, v́ nếu không nhờ Thiên Chúa th́ con người không thể hiện hữu được. Không chỉ thế, ngay cả khát vọng hoàn thiện, con người cũng có nhờ Thiên Chúa. Tóm lại, tất cả những ǵ tốt lành thánh thiện nơi con người, cũng đều nhờ Thiên Chúa mà có; và nếu không nhờ Thiên Chúa th́ không có ǵ tốt lành thánh thiện nơi con người.

            Thiên Chúa luôn yêu thương con người, Ngài không ngừng mời gọi con người đến với Ngài; Ngài mời gọi con người đáp trả t́nh yêu bằng lôi kéo con người đến với Ngài.  

c). Đáp trả t́nh yêu: “Xin điều tôi ao ước khao khát”

            Yêu thương là siêu vượt con người hạ đẳng tầm thường của ḿnh, không chiều theo cảm tính và bản năng "gây hấn" nơi ḿnh, là trở nên giống Thiên Chúa. Yêu thương là nét tuyệt vời của con người mà con vật không thể có được. Yêu thương là “thành nhân”, là trở nên con người hoàn thiện, là nên thánh.

            Yêu thương là sống theo lư trí "tự do", là khao khát và sống theo điều lư trí "tự do" thấy là đúng. Không sống theo lư trí tự do, là không yêu thương Thiên Chúa và con người.

            Yêu thương là hành vi tự do, hành vi nhân linh. Cầu xin Chúa giúp để ḿnh sống yêu thương hơn, là một hành vi siêu vượt và cũng là hành vi yêu thương. Nói cách khác, xin cho ḿnh sống yêu thương, là hành vi làm ḿnh trở nên tinh thần hơn.

 

C.  CON  ĐƯỜNG  THIÊNG  LIÊNG (TU ĐỨC)

           

     ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN       HPH1       HPH2       HPH3       HPH4       HPH5

 



[1] Tự ḿnh và do ḿnh: tự do ḿnh.